Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà - 10

Trong khoản mục chi phí nhân công trực tiếp Xí nghiệp hạch toán cả tiền lương của công nhân điều khiển máy thi công mà không hạch toán vào TK 623(6231) - "Chi phí nhân công điều khiển máy thi công" là chưa hợp lý, làm cho khoản mục chi phí nhân công trực tiếp trong giá thành sản phẩm tăng.

* Về các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ:

Xí nghiệp thực hiện trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo quý và tính vào chi phí sản xuất chung (TK627) của tháng cuối quý, làm cho khoản mục chi phí sản xuất chung tăng nhiều vào tháng cuối của mỗi quý từ đó ảnh hưởng đến tính chính xác của chỉ tiêu giá thành sản phẩm.

* Về việc trích trước tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất

nghỉ phép:

Trong kỳ, Xí nghiệp không tiến hành tích trước tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất nghỉ phép theo quy định nên khi phát sinh khoản chi phí này làm chi phí sản xuất tăng không phản ánh chính xác sản phẩm công trình.

* Về chi phí sử dụng máy thi công:

Hiện nay, việc hạch toán chi phí sử dụng máy thi công của Xí nghiệp là chưa hợp lý. Xí nghiệp chỉ sử dụng một TK cấp 2 là TK6238- "Chi phí bằng tiền khác". Bên cạnh đó, chi phí thuê ngoài máy thi công Xí nghiệp hạch toán vào TK 6238- "Chi phí bằng tiền khác" là chưa hợp lý.

* Về chi phí sản xuất chung:

Hiện nay tại Xí nghiệp, chi phí bốc dỡ nguyên vật liệu được hạch toán vào chi phí sản xuất chung (TK627) mà không tính vào giá trị nguyên vật liệu mua về nhập kho đã gây ảnh hưởng tới tính chính xác của trị giá nguyên vật liệu nhập - xuất kho cũng như tính chính xác của khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung trong giá thành sản phẩm.

Trong khoản mục chi phí sản xuất chung ngoài chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho hoạt động xây lắp còn có chi phí khấu hao MTC đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý chi phí sản xuất trong kỳ cụ thể là chi phí sản xuất chung.

* Về phương pháp tính giá thành sản phẩm :

Xí nghiệp đang áp dụng phương pháp trực tiếp để tính giá thành sản phẩm cho các CT, HMCT hoàn thành. Song trên thực tế ngoài việc xây mới các công trình thì Xí nghiệp còn thực hiện nhiều hợp đồng cải tạo nâng cấp các CT, HMCT. Các Hợp đồng này thường có đặc điểm là thời gian thi công ngắn, giá trị khối lượng xây lắp nhỏ nên bên chủ đầu tư thường thanh toán khi CT hoàn thành. Do vậy, trường hợp này nếu Xí nghiệp áp dụng phương pháp trực tiếp để tính thì sẽ không chặt chẽ.

* Về công tác tập hợp chứng từ kế toán:

Địa bàn hoạt động của Xí nghiệp rộng và phân tán nên việc tập hợp chứng từ kế toán đôi khi bị chậm. Do vậy, việc xử lý thông tin đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, chứng từ về chậm dễ dẫn đến việc tập hợp CPSX, việc kê khai thuế đầu vào gặp khó khăn.

3.3. Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 12.6:

3.3.1. Yêu cầu hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:

Việc hoàn thiện kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm được dựa trên các cơ sở sau:

- Chế độ kế toán xây lắp do Nhà nước ban hành phù hợp với đặc điểm vận dụng của doanh nghiệp.

- Phù hợp với thông lệ, chuẩn mực chung.

- Đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ.

- Biết vận dụng một cách khoa học của Hệ thống kế toán hiện hành và đưa ra các giải pháp phù hợp.

- Hoàn thiện trên cơ sở chế độ kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm hiện hành, không phá vỡ cấu trúc của hệ thống kế toán và đảm bảo yêu cầu khả thi, tiết kiệm và hiệu quả.

3.3.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi

phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 12.6:

Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi phí nói chung và công tác hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm. Xí nghiệp cần phải tiếp tục phát huy những mặt đã làm được và nhanh chóng tìm ra các giải pháp khắc phục những tồn tại nhằm làm cho công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp nói riêng ngày càng trở thành một công cụ quản lý hiệu quả. Qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp với tinh thần ham học hỏi, tìm hiểu thực tế cộng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Tài chính - Kế toán, trên cơ sở những hiểu biết của mình, em đề xuất một số ý kiến cá nhân nhằm hoàn thiện hơn công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp.

* Ý kiến 01: Về chi phí nhân công trực tiếp:

Theo chế độ kế toán hiện hành thì khoản mục chi phí nhân công trực tiếp đối với đơn vị xây lắp chỉ bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất. Hiện Xí nghiệp hạch toán cả tiền lương của công nhân trực tiếp điều khiển máy thi công vào khoản mục chi phí nhân công trực tiếp là chưa hợp lý. Việc hạch toán như vậy sẽ làm tăng khoản mục chi phí trực tiếp, giảm khoản mục chi phí chung dẫn đến tỷ trọng từng loại chi phí trong tổng chi phí sản xuất thay đổi. Khắc phục tình trạng trên để đảm bảo tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất cho các đối tượng chịu chi phí, các chi phí được tập hợp theo đúng khoản mục Xí nghiệp nên hạch toán chi phí nhân công điều khiển máy thi công vào TK 623(6231) - "Chi phí nhân công điều khiển máy thi công".

* Ý kiến 02: Về chi phí sử dụng máy thi công:

Để hạch toán chi phí máy thi công trong kỳ Xí nghiệp sử dụng TK 623 (6238- "Chi phí bằng tiền khác"). Hơn nữa, việc hạch toán TK 6238 không thật hợp lý, các chi phí bằng tiền khác bao gồm cả tiền điện thoại, điện, nước, chi phí thuê ngoài máy thi công... theo em để đảm bảo tính khoa học và hợp lý, phù hợp với đơn vị thực hiện phương pháp thi công hỗn hợp. Xí nghiệp sử dụng các TK cấp 02 cho TK 623- "Chi phí sử dụng máy thi công" theo từng khoản mục chi phí như đã được cài đặt trong phần mềm kế toán SAS mà Xí nghiệp đang áp dụng.

TK 6231 - Chi phí nhân công. TK 6232 - Chi phí vật liệu

TK 6233 - Chi phí dụng cụ sản xuất

TK 6234 - Chi phí khấu hao máy thi công

TK 6237 - Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6238 - Chi phí bằng tiền khác.

Theo đó, tiền lương của nhân công điều khiển máy thi công sẽ được hạch toán vào TK 6231 - "Chi phí nhân công điều khiển máy thi công", các khoản chi phí điện nước, điện thoại... sẽ được hạch toán vào TK6237-"Chi phí dịch vụ mua ngoài", các khoản chi phí về nguyên, nhiên vật liệu dùng cho hoạt động của máy thi công sẽ hạch toán vào TK 6232- "Chi phí vật liệu". Còn đối với các khoản chi phí máy thi công thuê ngoài Xí nghiệp nên hạch toán vào TK6237 - Chi phí dịch vụ mua ngoài như vậy sẽ hợp lý hơn.

* Ý kiến 03: Về các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ)

Việc thực hiện trích các khoản trên theo quý và tính vào chi phí sản xuất chung (TK627) vào tháng cuối cùng của mỗi quý làm cho chi phí chung sẽ có xu hướng tăng vào tháng cuối quý, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến tỷ trọng của chi phí sản xuất chung trong tổng chi phí sản xuất trong kỳ. Để khắc phục vấn đề này Xí nghiệp nên lập kế hoạch trích

BHXH, BHYT, KPCĐ theo quý sau đó phân bổ hợp lý cho các tháng trong quý và hàng tháng phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí nhằm làm giảm sự biến động của khoản mục chi phí sản xuất chung trong giá thành sản phẩm.

* Ý kiến 04: Về chi phí sản xuất chung:

Có thể nói, chi phí sản xuất chung tại Xí nghiệp là khoản mục chi phí tương đối lớn và phức tạp đòi hỏi phải hạch toán rõ ràng tạo điều kiện cho công tác quản lý chi phí sản xuất nói chung và chi phí sản xuất chung nói riêng được hiệu quả góp phần tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Hiện tại Xí nghiệp các chi phí như: Tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại... được hạch toán vào TK 6278- "Chi phí bằng tiền khác" là chưa hợp lý, để các yếu tố trong khoản mục chi phí sản xuất chung được phản ánh một cách chính xác tạo điều kiện cho công tác quản lý chi phí thì các chi phí này Xí nghiệp nên hạch toán vào TK 6277- " Chi phí dịch vụ mua ngoài".

Đối với chi phí vận chuyển, bốc dỡ nguyên vật liệu mua ngoài Xí nghiệp nên tính vào trị giá thực tế của nguyên vật liệu nhập kho, tạo điều kiện cho việc tính đúng trị giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho cũng như việc hạch toán chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và đảm bảo tính hợp lý của khoản mục chi phí sản xuất chung.

Chi phí khấu hao máy thi công là một khoản chi phí tương đối lớn, việc hạch toán khoản chi phí này sẽ làm cho chi phí sản xuất chung tăng lên. Xí nghiệp nên hạch toán khoản chi phí khấu hao máy thi công vào TK 623(6234)- "Chi phí khấu hao máy thi công"). Theo đó, khi trích khấu hao MTC trong kỳ kế toán sẽ hạch toán như sau:

Nợ TK 6234- Chi phí khấu hao máy thi công Có TK 2141 - Hao mòn TSCĐ

Cuối kỳ kết chuyển chi phí khấu hao máy thi công sang TK 154 - "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang", kế toán ghi:

Nợ TK 154- Chi phí khấu hao máy thi công

Có TK 6234 - Chi phí khấu hao máy thi công

* Ý kiến 05: Về việc trích trước tiền lương của công nhân trực

tiếp sản xuất nghỉ phép:

Để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm, Xí nghiệp nên thực hiện trích trước tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất nghỉ phép vào chi phí sản xuất sản phẩm coi như một khoản chi phí phải trả. Cụ thể việc trích trước được thực hiện như sau:

- Hàng tháng, khi thực hiện trích trước tiền lương của công nhân

sản xuất nghỉ phép, kế toán ghi:

Nợ TK 622 - CPNCTT (Mức trích trước tiền lương)

Có TK 335-CP phải trả nghỉ phép của công nhân sản

xuất)

Mức trích trước tiền

=

lương phép kế hoạch


Tiền lương thực phải trả

x

cho CNTT trong tháng


Tỷ lệ trích trước


Tỷ lệ trích trước

Tổng số lương phép kế hoạch năm

của CN TT sản xuất

= x100 Tổng số lượng cơ bản kế hoạch năm

của CN TT sản xuất

Trong kỳ, khi phát sinh thực tế phải trả về tiền lương nghỉ phép, kế

toán ghi:

Nợ TK 335-Chi phí phải trả

Có TK 334-Phải trả công nhân viên

Cuối kỳ, kế toán xử lý chênh lệch theo chế độ kế toán hiện hành.

* Ý kiến 06: Về công tác tổ chức tập hợp chứng từ kế toán:

Do đặc điểm địa bàn hoạt động phân tán, vì vậy các chứng từ gửi về phòng kế toán đôi khi bị chậm, kế toán phải tiến hành sắp xếp số lượng chứng từ khá lớn sau đó mới nhập dữ liệu vào máy. Như vậy dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn thiếu sót, nhất là vào kỳ tiến độ thi công gấp rút, thi công nhiều CT với lượng chi phí tương đối lớn. Để khắc phục

tình trạng này, kế toán cần đôn đốc các đội tập hợp chứng từ kịp thời về phòng kế toán bằng các quy định mốc thời gian cụ thể (tối thiểu là 05 ngày, tối đa là 10 ngày).

* Ý kiến 07: Về phương pháp tính giá thành sản phẩm:

Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm của sản phẩm xây lắp và yêu cầu của công tác quản lý Xí nghiệp đang áp dụng phương pháp trực tiếp để tính giá thành sản phẩm. Song thực tế là ngoài công việc xây dựng mới các CT, Xí nghiệp còn thực hiện nhiều hợp đồng cải tạo, nâng cấp các CT. Các hợp đồng này có đặc điểm là thời gian thi công ngắn, giá trị khối lượng xây lắp nhỏ nên bên chủ đầu tư thường thanh toán một lần sau khi hợp đồng kết thúc. Nếu Xí nghiệp vẫn áp dụng phương pháp trên để tính giá thành thì sẽ không thậy hợp lý. Xí nghiệp nên áp dụng thêm phương pháp tình giá thành theo đơn đặt hàng (ĐĐH). Ưu điểm của phương pháp này là cho phép quản lý chi phí và giá thành theo ĐĐH một cách chi tiết, chặt chẽ. Việc tính giá thành trở nên đơn giản và nhanh chóng.

Cụ thể việc sử dụng phương pháp tính theo ĐĐH tại Xí nghiệp có

thể được tiến hành như sau:

+ Khi bắt khởi công thì mỗi ĐĐH được mở một bảng tính giá

thành:

- Hàng tháng, căn cứ vào các số liệu được phản ảnh về CPNVLTT, CPNCTT, CPSDMTC, CPSXC kế toán lập bảng tổng hợp chi phí cho tất cả các ĐĐH theo mẫu sau:


BẢNG TỔNG HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT THEO ĐĐH

Tháng.......năm..........


STT

ĐĐH

CPNVLTT

CPNCTT

CPSDMTC

CPSXC

TỔNG

CỘNG








Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà - 10


- Số liệu từ bảng tổng hợp này sẽ được chuyển vào bảng tổng hợp tính giá thành tương ứng. Khi ĐĐH hoàn thành được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán thì toàn bộ CPSX đã tập hợp là giá thành sản phẩm.

- Căn cứ vào bảng tính giá thành và giá trị dự toán của ĐĐH đó, kế toán có thể phân tích giá thành ĐĐH theo các khoản mục chi phí. Từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 06/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí