3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ
Chúng ta đều biết người xưa viết truyện truyền kỳ là miêu tả những truyện lạ lùng, kỳ quái, mượn truyện thần thánh để phản ánh thế giới trần tục của con người. Đó là những truyện sinh hoạt thuộc số phận của con người bình thường trong sự biến động khôn lường của xã hội phong kiến.
Trong Liêu trai chí dị, bồ Tùng Linh viết về yêu, ma, hồ quỷ. Nhưng trong hơn 1000 trang của Liêu Trai, rất khó tìm ra những cảnh tượng khủng khiếp khiến người đọc phải rùng mình đứng tim, dựng tóc gáy hoặc nếu có cũng chỉ là một vài hình ảnh lướt qua, không để lại cảm xúc gì sâu đậm. Đây cũng là ý đồ nghệ thuật của người sáng tác. Bồ Tùng Linh muốn mượn ma, hổ để nói về con người, về cuộc sống. Thông qua thế giới yêu ma tác giả muốn khám phá cuộc sống xung quanh một cách tường tận, cặn kẽ nhất.
Truyện Tịch Phương Bình, ông vạch trần bộ máy xấu xa của toàn thể bộ máy quan liêu trong xã hội. Tịch Liêm cha Tịch Phương Bình vốn có chút hiềm khích với một người nhà giàu cùng làng. Sau khi chết tên nhà giàu dùng tiền hối lộ quan âm phủ để hãm hại Tịch Liêm. Thương cha Tịch Phương Bình tìm xuống âm phủ kêu oan. Nhưng anh vô cùng thất vọng khi phát hiện rằng, ở chốn âm ty địa phủ từ Diêm Vương, Thành Hoàng, Quận Thủ... tất thảy đều kết bạn với bọn địa chủ. Không giải oan được Tịch Phương Bích còn chịu nhiều hình phạt thảm khốc như lăn trên giường lửa, cưa đôi thân thể. Cuối cùng tấm lòng hiếu thảo của anh cũng được đền đáp.
Trong 20 truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào đầu thế kỷ XVI ta cũng thấy các yếu tố hoang đường kỳ ảo. Thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần ma quỷ dường như có mối tương giao. Toàn bộ Truyền kỳ mạn lục đi theo mô típ kì ảo, kì lạ phổ biến là người hoá thân, tàng hình, lấy ma, lấy hồ li, sống trong thế giới yêu quái, có đầu thai, luân hồi
báo ứng, thi thố pháp luật, kêu mưa gọi gió, biến hoá khôn lường. Đề tài chủ yếu là đề cao tính dân tộc, tinh thần yêu nước, biểu dương cái thiện, phê phán cường quyền, đấu tranh chống các thế lực đen tối, ngợi ca tình yêu gắn với các giá trị nhân văn, đồng thời cũng bày tỏ quan điểm bảo vệ lễ giáo. Hệ thống nhân vật chủ yếu là các anh hùng hào kiệt, đạo sĩ, ẩn sĩ, tiên ông, yêu nữ, thần thuồng luồng, Diêm Vương, Dạ xoa, Thổ công, hộ pháp,...
Chuyên chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện tiêu biểu trong tập Truyền kì mạn lục nhằm khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu nước và ý chí chống nô dịch, bất công kiên quyết đấu tranh bảo vệ cho chính nghĩa, lẽ phải. Hành động châm lửa đốt đền của Ngô Tử Văn xuất phát từ việc tên Bộ tướng của Mộc Thạch thời Minh là Viên Bách hộ họ Thôi tử trận ở gần ngôi đền thờ vị thần người nước Việt, sau đó hồn ma họ thôi tranh, cướp quyền vị thần người Việt và "từ đây là yêu quái trong dân gian". Với trí dũng có thừa, Ngô Tử Văn đã đốt đền sẵn sàng chịu chết và xuống tận cõi âm để làm rõ sự thật.
Trong những truyện truyền kỳ, các yếu tố kỳ lạ, kỳ ảo cũng được khai thác đến tối đa và kết hợp nhuần nhuyễn với các chi tiết hiện thực, phù hợp với cách quan niệm và hình dung cuộc sống. Mối quan hệ giữa đời sống hiện thực và cõi âm hư ảo được đan kết, chuyển hoá rất tinh tế, liền mạch. Con người đi từ cõi thực vào cõi ảo đều có lí do, có bước chuyển giai đoạn. Khiến cho mạch truyện diễn biến tự nhiên, tạo nên sương khói hư ảo đặc trưng cho loại truyện truyền kỳ.
Trong truyện Người con gái Nam Xương ta bắt gặp sự hoà quện giữa hai yếu tố âm - dương. Để chứng minh cho lòng chung thuỷ của mình người con gái họ Vương đã phải gieo mình xuống sông tự tử song hồn nàng không chết, lại trở về khi chồng nàng lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.
Như vậy, qua những ví dụ trên ta thấy trong truyện truyền kỳ tác giả đã rất khéo sử dụng những hình tượng thần tiên, quái đản với phương thức biểu hiện chủ yếu là các yếu tố hoang đường kỳ ảo. Đọc các câu truyện trong Truyền kỳ mạn lục đôi lúc người ta cảm nhận đằng sau thế giới thực còn có một thế giới khác. Thế giới ấy thuộc về duy tâm chủ nghĩa mà lúc bấy giờ người ta không thể lý giải được. Người ta chỉ biết mượn hình ảnh thần tiên quái đản để diễn tả tư tưởng tình cảm con người một cách kín đáo và tế nhị. Thật đúng như lời nhận định Vũ Thanh ''trong quá trình hình thành và phát triển truyện ngắn trung cổ Việt Nam, các nhà văn đặc biệt là tác giả của Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục đã rất ý thức trong việc phản ánh những truyện kỳ lạ cũng như trong việc sử dụng các kỳ lạ như một hạt nhân tự sự và bút pháp nghệ thuật để truyền tải một cách hình tượng những tư tưởng của mình".
Có thể bạn quan tâm!
- Thế Lữ Với Thể Loại Văn Xuôi Mới
- Thế Lữ Với Thể Loại Truyện Trinh Thám Ở Việt Nam
- Cách Giải Mã Độc Đáo Trong Truyện Trinh Thám Của Thế Lữ
- Cách Giải Thích Khoa Học Trong Truyện Kinh Dị Của Thế Lữ
- Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 16
- Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 17
Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.
Khác với truyện truyền kỳ, khuynh hướng truyện kinh dị nói chung, truyện "kinh dị" của Thế Lữ nói riêng mặc dù cùng đi sâu và khai thác các yếu tố bí hiểm, rùng rợn, giật gân, nhưng lại có sự "cách tân" hết sức mới lạ, độc đáo dẫn người đọc vào một thế giới xa lạ thoả mãn trí tưởng tượng nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Phan Trọng Thưởng trong bài Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong đã có lời nhận xét rất hay "Nếu ở Thơ mới, ông thích ngao du lên cõi Tiên, ở truyện trinh thám ông thích mạo hiểm vào cõi đời thì ở truyện ly kỳ rùng rợn, ông lại thích phiêu lưu vào cõi âm. Ở đâu ông cũng là người săn đuổi: cái đẹp, cái hư ảo ở cõi Tiên, cái thực ở cõi trần và cái quái dị ở cõi âm phủ" [54].
Sự khác biệt giữa các truyện mang yếu tố kinh dị và truyện truyền kỳ được thể hiện ở một số phương diện nghệ thuật sau:
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật được kết tinh bởi quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhưng đã có giá trị thẩm mĩ cao đòi hỏi người cầm bút không chỉ dừng ở sự lựa chọn đề tài mà phải khám phá cho được những phương thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật hiện hữu nhất.
Những truyện mang yếu tố "kinh dị" của Thế Lữ thuộc phạm trù văn học hiện đại nên các biện pháp mà ông sử dụng trong các tác phẩm đã có sự khác biệt so với những truyện truyền kỳ. Nếu truyện truyền kỳ sử dụng bút pháp nghệ thuật cổ điển thì Thế Lữ viết truyện bằng bút pháp hiện đại. Sự đan cài, phối hợp nhiều biện pháp nghệ thuật đã tạo nên những nét khác biệt rất cơ bản giữa các truyện mang yếu tố kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ.
Ở những truyện cổ truyền thống nói chung, truyện truyền kỳ nói riêng được viết bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển thiên về cốt truyện. Việc xây dựng cốt truyện như thế nào cho hấp dẫn là vấn đề quan trọng nhất đối với họ. Phải làm sao cho cốt truyện có tình tiết éo le, sự kiện ly kỳ, tình huống gay cấn đầy kịch tính thì tác phẩm đó mới đạt yêu cầu. Vì vậy, truyện truyền kỳ sử dụng nghệ thuật kể là chính. Tìm hiểu một số truyện truyền kỳ chúng tôi thấy rõ điều này.
Ở Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông qua thống kê cho thấy trong tổng số 170 câu văn của truyện Tình Chuột thì có đến 161 câu kể, chỉ có 9 câu tả. Truyện Chuyện lạ nhà thuyền chài trong tổng số 172 câu có 165 câu kể chỉ có 7 câu tả. Đặc biệt trong truyện Bài ký một giấc mộng trong tổng số 83 câu có 81 câu kể chỉ vẻn vẹn có 2 câu tả.
Trong 20 truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ta cũng thấy có hiện tượng tương tự như vậy. Truyện Chuyện cái chùa hoang ở Đông Trào trong tổng số 80 câu văn thì có tới 74 câu kể, có 6 câu tả. Truyện Chuyện cây gạo trong tổng số 115 câu có 105 câu kể, chỉ có 10 câu tả.
Như vậy, qua khảo sát thống kê một số truyện trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông và trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ta thấy: Trong những truyện truyền kỳ của văn học trung đại chủ yếu là dùng biện pháp nghệ thuật kể để tái hiện lại cốt truyện. Tình tiết của các truyện được xắp theo trình tự thời gian, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện nào xảy ra sau kể sau, bố cục thường là mở đầu giới thiệu nhân vật, họ tên, quê quán, tính tình, phẩm hạnh. Kế đó là các truyện kể kỳ ngộ lạ lùng, tức phần trung tâm của truyện. Phần kết kể lý do của truyện, tạo cho cốt truyện vẻ rõ ràng, mạch lạc.
Bên cạnh việc sử dụng biện pháp nghệ thuật kể, Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ còn sử dụng biện pháp nghệ thuật tả, tả cảnh, tả người, tả tâm trạng. Tuy không nhiều nhưng đã có ở một số truyện.
Vượt qua giới hạn về không gian, đến với truyện truyền kỳ của Trung Quốc mà tiêu biểu là Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh ta thấy tác giả cũng chủ yếu sử dụng biện pháp nghệ thuật kể. Trong truyện Hồ gả con trong tổng số 114 câu văn có 106 câu kể, chỉ có 8 câu tả. Truyện Bộ ra vẽ trong tổng 139 câu thì có 135 câu kể chỉ có 5 câu tả. Truyện Bức hoạ trên tường có 66 câu thì có 58 câu kể, chỉ có 8 câu tả.
Qua những con số thống kê trên ta có thể khẳng định một điều rằng biện pháp nghệ thuật kể là một phương tiện hữu hiệu nổi bật nhất trong các truyện truyền kỳ.
Đi vào thế giới truyện "kinh dị" của Thế Lữ ta thấy có sự thay đổi trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật kể trong mối tương quan với nghệ thuật tả. Thế Lữ không chỉ chú trọng vào sử dụng biện pháp nghệ thuật kể để tái hiện cốt truyện như trong những truyện truyền kỳ. Truyện Cái đầu lâu có 30 câu tả trong tổng 158 câu văn... Như vậy, rõ ràng trong những truyện "kinh dị" của Thế Lữ yếu tố kể và tả có sự đan xen không tách biệt như ở truyện truyền kỳ.
Một điểm khác biệt dễ dàng nhận thấy giữa truyện "kinh dị" của Thế Lữ và truyện truyền kỳ là nếu ở truyện truyền kỳ mở đầu truyện thường kể lai lịch, quê quán, họ tên... Trong truyện Thế Lữ mở đầu truyện thường đưa người đọc vào không khí rờn rợn, ly kỳ, huyền bí gây ấn tượng sâu sắc và lôi cuốn người đọc.
Trong Vàng và Máu, tác giả đã kể lại những câu chuyện, những lời đồn đại về núi Văn Dú và hang thần mà người dân sống quanh đó cho biết: "Có người nói rằng thường trông thấy những hình bóng kỳ dị" [38-33]. Còn trước cửa hang "Người thì bảo có toàn đầu lâu, người thì bảo có đủ các thứ rắn rết" [38-33]. Những người già cả trong làng thì cho rằng "Hang thần hoá thiêng vì trong đó chôn cất không biết bao nhiêu thây của quân giặc khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước Nam khi trước bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dự rồi bị hãm chết đói trong hang [38-3]. Có một thời muốn phòng những tai nạn người ta đặt tế lễ thần Văn Dú hàng năm "Vật hy sinh là một người con gái đẹp. Tiếng oan khóc của cha mẹ những người gái trinh bị giết quăng xuống suối nghe bi thảm"[38-34].
Tác giả đã đưa một loạt những câu chuyện, những lời đồn đại tạo ra một không khí huyền bí rờn rợn bao quanh hang thần và núi Văn Dú. Từ màn sương mờ ảo, hư thực xung quanh những câu chuyện đó tác giả dẫn dắt người đọc vào câu chuyện hai người đàn ông Thổ từ miền bản Đông thuộc Châu Khao Lâm đến hang Văn Dú tìm vàng, rồi câu chuyện ông Châu Nga Lộc cùng năm bộ hạ vào hang tìm vàng. Đến hang thần Văn Dú họ gặp những cảnh tượng quái gở, kinh hoàng.
Truyện Cái đầu lâu, nhân vật tôi đưa người đọc vào không khí rờn rợn theo một hướng khác. Trong khi kể chuyện về Cái đầu lâu mà anh Thao mang về, cùng với những âm thanh lạ phát ra từ đó. Người kể chuyện để cho
nhân vật của mình phát ngôn ra những lời thoại hồi tưởng về cái đầu lâu. Ví dụ nhân vật Chung cho rằng "Tôi vừa mới đọc xong những truyện kinh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước - Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sứ về hồi đại cách mệnh pháp, thấy người kể chuyện những thủ cấp sau ba bốn giờ vẫn còn sống được" [38 - 178 - 181]. Với cách kể chuyện như vậy thì các yếu tố ly kỳ rùng rợn từ câu chuyện về cái đầu lâu sẽ tăng theo trường liên tưởng các nhân vật.
Trong truyện Trại Bồ Tùng Linh. Mở đầu truyện đề cập đến trại Bồ, nơi nhân vật tôi đến thuê ở trọ, người kể chuyện đã tạo ra không khí rùng rợn huyền bí của khu Trại Bồ bằng cách kể lại những lời đồn đại của những người dân sống chung quanh về Trại Bồ: "Tôi cũng có nghe thấy mấy người tôi thuê đến quét dọn nói bóng gió, đến sự "bỏ không" của trại này. Hình như trong gia đình "cụ lớn" có người chết oan hoặc tự tử, hoặc hoá điên không rõ lắm" [38 - 294]. Còn người coi Trại Bồ thì: "Nhắc đến một vài chuyện ma quái mà hắn đã có lần trông thấy hồi hắn phải ở trong trại" [38 - 301]. Từ lối dẫn truyện này, nhân vật tôi đưa người đọc đến với câu chuyện rất dị thường mà mình gặp tại Trại Bồ, đó là sự xuất hiện và hành động lạ lùng của một người đàn bà đẹp vào đêm khuya trong Trại Bồ.
Không chỉ dừng lại như vậy, trong quá trình kể chuyện, nhân vật tôi còn đưa thêm những lời đồn đại về Trại Bồ để đẩy cao hơn không khí rờn rợn, ly kỳ của câu chuyện khi thằng Dần lo sợ về chuyện của chủ nó. Nó đã hỏi người nhà quê và được biết "Theo lời đồn quanh quẩn đó thì Trại Bồ vẫn có ma, khi thì mập mờ, khi thì hiện rõ, nhưng không làm ai việc gì" [38 - 342]. Việc tạo ra những lời đồn đại đó khiến câu chuyện càng trở nên ly kỳ, hấp dẫn, nó mang dáng dấp của những thiên Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Với cách kể chuyện theo một lối riêng. Thế Lữ như dẫn người đọc vào một thế giới ly kỳ, huyền bí. Truyện kinh dị của Thế Lữ mới nhìn, mới nghe
người ta tưởng đó là những chuyện hoang đường ma quái. Đúng là tác giả đã cố tình gây nên trong truyện một không khí rờn rợn, ly kỳ. Chủ tâm đưa người đọc vào thế giới đầy bí ẩn nhưng cuối cùng lại được giải thích một cách khoa học, thấu đáo. Chính sự khác biệt đó làm nên sự thành công và nét đặc sắc trong phong cách của nhà văn ở loại truyện này.
3.3.2.2. Nghệ thuật tả
Bên cạnh sự khác biệt ở sử dụng biện pháp nghệ thuật kể, truyện kinh dị của Thế Lữ và dòng truyện truyền kỳ còn có sự khác biệt ở việc sử dụng biện pháp nghệ thuật tả. Các sự kiện trong truyện truyền kỳ được kể lại như nó vốn có, ít thấy phân tích hoặc miêu tả. Nếu có thì chung chung, khái quát ước lệ.
Chẳng hạn khi miêu tả nhan sắc cô gái đẹp. Bồ Tùng Linh, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ thường dùng những cụm từ sau "dung nhan tuyệt đẹp", "tươi đẹp vô song","nhan sắc tuyệt đẹp","xinh đẹp như tiên","khuôn mặt diễm lệ"...
- Truyện Hồ gá nữ - Hồ gả con: "Ông đưa mắt liếc nhìn tóc phượng cài trâm thuý, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp" [42 - 13].
- Truyện A Bảo - cô Bảo: "Ông cụ có một người con là A Bảo, là người tuyệt sắc".
- Truyện Bài ký một giấc mộng (Lê Thánh Tông): "Đêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp độc một phong thư" [68 - 14].
- Truyện Cây gạo (Nguyễn Dữ): "Dọc đường hay gặp một người con gái xin đẹp... Chàng liếc mắt trông thấy một giai nhân tuyệt sắc" [68 - 41].
Ngược lại với truyện truyền kỳ, trong truyện "kinh dị" của Thế Lữ nghệ thuật miêu tả là nét đặc sắc, là nội dung thành công nhất. Thế giới "kinh dị" được nhà văn miêu tả là thiên nhiên, con người và tâm trạng con người. Với