Một Số Khái Niệm Liên Quan Đến Vấn Đề Nghiên Cứu

người như thế nào, có điểm mạnh điểm yếu nào và phù hợp với ngành, nghề nào trong thế giới nghề nghiệp.

Việc sử dụng trắc nghiệm khách quan có thể giúp người được tư vấn biết được về cơ bản cá nhân có hợp (hay không hợp) với nghề định chọn. Kết quả trắc nghiệp là cơ sở khoa học để TVN, góp phần hỗ trợ cho học sinh tự hiểu mình một cách khách quan hơn, từ đó biết chọn học ngành nghề nào cho phù hợp, đồng thời tránh chọn lầm nghề. Một số trắc nghiệm được các nhân viên TVN khuyên dùng là IQ test (chỉ số trí tuệ - Intelligence Quotient), EQ test (đo chỉ số cảm xúc - Emotion Quotient), AQ test (đo chỉ số vượt khó - Adversity Quotient), CQ test (đo chỉ số sáng tạo - Creation Quotient)... Cùng với các trắc nghiệm chuyên biệt như: Trắc nghiệm nghiên cứu kiểu nhân cách của H.J.Eysenck, trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn của J.C.Raven, trắc nghiệm đánh giá trí tuệ tổng quát của David Wechsler, V.P. Zakharov với trắc nghiệm khả năng giao tiếp, M. Luscher với phương pháp nghiên cứu nhân cách, A.E.Golomstoc nghiên cứu hứng thú học sinh bằng angket, E.A.Klimop với “Bản xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự đánh giá”, John Holland với trắc nghiệm RIASEC...

Theo các nhà tư vấn tâm lý, việc sử dụng trắc nghiệm trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh THPT được xem như là một công cụ hỗ trợ và tạo tính thuyết phục cao hơn trong công tác hướng nghiệp, giúp các em tìm hiểu và khám phá bản thân một cách kỹ lưỡng hơn. Tuy trắc nghiệm có rất nhiều ưu điểm và hiệu quả cao, nhưng cũng không thể coi đó là một nhân tố duy nhất và quan trọng nhất trong TVN cho học sinh. Việc TVN còn phải tính đến rất nhiều yếu tố như: hoàn cảnh cá nhân, gia đình, môi trường sống, điểm số học tập trên lớp, điểm chuẩn của các trường đại học…

Ngoài những hướng nghiên cứu tác giả đã tìm hiểu được ở trên, ở Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về công tác hướng nghiệp và quản lý công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông đã được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm dưới góp độ giáo dục học và tâm lý học nghề nghiệp. Chẳng hạn như: Từ những năm 80 của thế kỷ XX, công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông đã được quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận và quản lý. Những kết quả nghiên cứu của hai nhóm dưới sự chỉ đạo của Phạm Tất Dong và Đặng Danh Ánh đã tạo cơ sở cho chính phủ ra quyết định số 126 - CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và sử dụng hợp lý học sinh tốt nghiệp ra trường” ngày 19/03/1981. Ngoài ra, có nhiều các tác giả khác cũng quan tâm nghiên cứu chuyên sâu về công tác hướng nghiệp, có thể dẫn ra một số tác giả như: Nguyễn Văn Hộ (1998), Nguyễn Bá Dương (1994), Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Hồ Văn Thống (2011),… Các nghiên cứu này đã giải quyết tương đối có hệ thống về lý luận công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông.

Ngoài ra, nghiên cứu về hoạt động tư vấn hướng nghiệp gần đây chúng tôi còn thấy có một số công trình nghiên cứu như: Tác giả Phạm Ngọc Linh nghiên cứu: “Tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông”, luận án tiến sỹ (2013); Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn nghiên cứu: “Quản lý hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trường THPT tỉnh Thái Bình”, luận văn thạc sỹ (2014); Tác giả Lê Thị Thu Trà nghiên cứu: “Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội”, luận văn thạc sỹ (2016); Tác giả Nguyễn Ngọc Thảo nghiên cứu: “Quản lý hoạt động tư vấn hướng nghiệp theo hướng phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở ở thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ”, luận văn thạc sỹ (2016)..v.v. Các nghiên cứu trên được tiến hành theo những hướng khác nhau, góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi tiến hành nghiên cứu của mình.

Tuy nhiên, nghiên cứu về hoạt động TVN cho học sinh ở Trung tâm GDTX - HN - DN trên cả nước chúng tôi chưa tiếp cận được công trình nào. Các trung tâm GDTX - HN - DN có những đặc thù riêng khác với công tác TVN ở các trường THPT. Do vậy, chúng tôi cho rằng cần phải có những

nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của bản thân.

1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.2.1. Khái niệm quản lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Quản lý là một hiện tượng xã hội được xuất hiện từ rất sớm, đúng như K.Mác đã nói: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm thì tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [10; tr. 24].

Ngày nay, nhiều người thừa nhận rằng quản lý trở thành một trong 3 nhân tố của sự phát triển xã hội: tri thức, sức lao động và trình độ quản lý. Quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp vận dụng tri thức với việc sử dụng sức lao động để phát triển sản xuất xã hội. Việc kết hợp đó tốt thì xã hội phát triển, ngược lại kết hợp không tốt thì xã hội sẽ trì trệ, sự phát triển sẽ bị chậm lại.

Quản lý hoạt động tư vấn nghề cho học sinh ở trung tâm giáo dục thường xuyên hướng nghiệp dạy nghề Chí Linh tỉnh Hải Dương - 4

Trong nghiên cứu khoa học, có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý, theo những cách tiếp cận khác nhau.

Có thể điểm qua một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu như sau:

- Pall Hersey và Ken Blanc Hard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” thì xem xét “Quản lý như là một quá trình làm việc cùng và thông qua các cá nhân, các nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục đích của tổ chức” [14; tr. 52].

Theo Harol Koontz trong tác phẩm “Những vấn đề cốt lõi của quản lý” đã được dịch ra tiếng Việt Nam của nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội năm 1992 thì: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức”9.

Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin: “Quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ thống xã hội. Trên cơ sở vận dụng đúng đắn những quy luật và xu hướng khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra. Theo C.Mác: “Quản lý là loại lao động sẽ điều khiển mọi quá trình lao động phát triển xã hội”10. Theo F.W.Taylor - người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong tổng bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian lao động, sử dụng hợp lý nhất công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng năng suất lao động. Ông cho rằng: Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất.

Theo tác giả Hà Sỹ Hồ thì: “Quản lý là một quá trình hoạt động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong các tác động có thể dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”6.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến những người lao động (khách thể quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến”15.

Với cách hiểu quản lý là quản lý tổ chức của con người, hoạt động của con người thì có thể định nghĩa: Quản lý là quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại (duy trì), ổn định và phát triển của tổ chức trong một môi trường biến động.

Từ những quan niệm trên chúng tôi thấy, ở những góc độ khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, quan niệm này phụ thuộc vào cái nhìn

chủ quan và tính mục đích hoạt động của hệ thống. Nhưng chúng ta có thể hiểu một cách khái quát là: Quản lý một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học, xí nghiệp…) với tư cách là một hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào trong thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Tuy có các cách tiếp nhận khác nhau nhưng trong quá trình nghiên cứu tác giả thấy khái niệm quản lý bao hàm một số ý nghĩa chung đó là:

- Quản lý là các hoạt động để đảm bảo mục đích chung là hoàn thành công việc qua nỗ lực của các cá thể trong tổ chức. Đối tượng tác động của quản lý là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể.

- Quản lý là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định đúng quy luật, hợp thời điểm và có hiệu quả của quản lý nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định hướng đến mục tiêu đó là đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ và ăn ý những nỗ lực của các cá thể nhằm đạt được mục đích chung của tổ chức hay nói cách khác là nguyên tắc đảm bảo phát huy cao độ năng lực của các cá nhân trong tổ chức để đạt được mục đích chung.

- Hệ thống quản lý bao giờ cũng gồm 2 phân hệ là: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý (người quản lý và người bị quản lý). Tác động quản lý là tác động có định hướng, có tổ chức mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp khác nhau thông qua cơ chế quản lý để sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực sẵn có của tổ chức trong điều kiện nhất định nhằm đảm bảo cho hệ thống ổn định phát triển và đạt được mục tiêu đã định.

- Mục tiêu cuối của quản lý là chất lượng sản phẩm vì lợi ích phục vụ con người. Người quản lý tựu trung lại là nghiên cứu khoa học nghệ thuật giải quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ

giữa chủ thể và khách thể trong hệ thống mà còn trong mối quan hệ tương tác với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình.

Như vậy, bản chất của quản lý là một loại lao động để điều khiển lao động. Đó là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Xã hội ngày càng phát triển các loại hình lao động ngày càng phong phú, phức tạp, tinh vi thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng và quyết định để tổ chức hướng tới đích bằng con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Với bản chất là một khoa học và nghệ thuật trong việc điều khiển và phối hợp sự nỗ lực của con người vì mục tiêu chung. Trong xã hội hiện đại, tính khoa học và nghệ thuật của quản lý được đề cao.

Vì vậy chúng tôi quan niệm: “Quản lý là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý để lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển đối tượng quản lý thực hiện nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.

Quá trình này có thể được mô tả bằng sơ đồ đơn giản sau đây:


Phương pháp QL

Chủ thể QL

Đối tượng QL

Mục tiêu


Công cụ QL


Hình 1.1: Mô hình về quản lý

1.2.2. Tư vấn nghề và quản lý hoạt động tư vấn nghề cho học sinh

* Tư vấn nghề:

K.K. Platonov đã đưa ra “Tam giác hướng nghiệp” bao gồm các thành phần khác nhau. Trong đó, tư vấn nghề là khâu trung gian giữa hai khâu định

hướng nghề và tuyển chọn nghề (Hình 1.2). Người lựa chọn nghề nhiều khi chưa thật hiểu biết về mình, cũng có thể do ảnh hưởng của dư luận xã hội hoặc thiếu cái nhìn thực tế về nhu cầu của thị trường lao động mà co những quyết định lựa chọn nghề thiếu chín chắn, chính xác là những nguyên nhân gây ra sự chán nghề, xin đổi nghề hoặc bỏ nghề. Nhờ có công tác tư vấn nghề, đối tượng được tư vấn có sự định hướng đúng đắn hơn hoặc sẽ có sự chuẩn bị tốt hơn để theo đổi một nghề nào đó. Thực chất của tư vấn nghề là căn cứ vào biện pháp chuyên môn cung cấp cho đối tượng được tư vấn những lời khuyên về chọn nghề sát hợp và có cơ sở khoa học, giúp họ chọn được những nghề mình yêu thích, thực sự phù hợp với mình, để lập thân, lập nghiệp, cống hiến tài năng, trí tuệ của mình. Đồng thời có sự tiến bộ trong nghề nghiệp và trụ vững trong cuộc đời.

Định hướng nghề

nghiệp

Các nghề và yêu

cầu của chúng

Thị trường lao động

Tư vấn nghề

Phẩm chất, Năng lực,

hoàn cảnh cá nhân

Tuyển chọn nghề

Hình 1.2. Vị trí của tư vấn nghề trong hướng nghiệp

Tư vấn nghề thực hiện các nhiệm vụ như: Chẩn đoán những thuộc tính và phẩm chất quan trọng về mặt nghề nghiệp; Đối chiếu cấu trúc tâm lý của

nhân cách và của hoạt động nghề nghiệp; Xác định con đường tiếp tục phát triển nhân cách…v.v.

Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về TVN, trong đề tài này chúng tôi sử dụng khái niệm TVN của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền: “TVN là một hoạt động thông tin nhằm cung cấp cho đối tượng tư vấn về một hoạt động nghề mà họ chưa có điều kiện để hiểu biết cặn kẽ. Trên cơ sở đối chiếu với năng lực, hứng thú của cá nhân, nhu cầu của xã hội để từ đó giúp cho đối tượng tư vấn có sự lựa chọn nghề một cách phù hợp” [7].

* Quản lý hoạt động tư vấn nghề cho học sinh:

Về bản chất, TVN là một hoạt động thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu của một học sinh hay của một nhóm học sinh muốn hiểu biết về một đối tượng hoạt động mà họ chưa có điều kiện tiếp cận một cách cặn kẽ và hoàn chỉnh.

Trong thực tế chúng ta thường thấy xuất hiện các cụm từ có liên quan tới hoạt động TV như: TV học đường, TV hôn nhân và gia đình, TV việc làm... Đồng thời cũng tồn tại những tổ chức dịch vụ TV hiện có mặt tại thành phố, các khu công nghiệp, các tổ chức thanh niên, phụ nữ, quân đội như: Trung tâm TV và xúc tiến việc làm, Trung tâm TV hôn nhân và gia đình...

Như vậy TVN cũng được hiểu như một hoạt động thông tin nhằm giúp học sinh nâng cao nhận thức, hiểu biết về nghề và hoạt động nghề, lĩnh vực nghề riêng biệt.

TVN là một hoạt động giữa chủ thể TV với đối tượng TV, trong đó chủ thể là một cá nhân hay một tổ chức có kinh nghiệm nắm vững một lĩnh vực hoạt động nào đó. Chủ thể TV là nơi thu nhận, sàng lọc, chuyển tải thông tin nghề có khả năng ứng xử với đối tượng TV (để thỏa mãn những nhu cầu đối tượng ở mức độ cần thiết). Do tính phức hợp về nhu cầu của đối tượng TV, chủ thể TV cũng theo đó mà có thành phần xuất xứ đa dạng: đó có thể là những chuyên gia xã hội học, tâm lý học, y học, những chuyên gia về thương mại, khoa học kỹ thuật, văn hóa, mỹ thuật...

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/05/2022