của tài sản”, khách hàng đã đặt cọc tiền để mua xe nhưng chưa thanh toán hết nên xe vẫn năm trong kho, công ty lại không thể bán chúng cho những khách hàng khác có khả năng thanh toán ngay (vì khách hàng đã đặt cọc có thể thanh toán và nhận xe bất kỳ lúc nào họ có thể). Điều này cho thấy công ty bị ứ đọng vốn khá lớn ở tài khoản “hàng tồn kho”.
- Trong kết cấu của tài sản cố định và đầu tư ngắn hạn, đáng lưu ý là sự tăng lên của “góp vốn liên doanh” cho thấy công ty chú trọng nhiều vào các dự án góp vốn liên doanh với kỳ vọng thu lợi nhuận vào những năm sau.
- Bên cạnh sự thay đổi của kết cấu tài sản và nguồn vốn thì sự thay đổi trong bảng báo cáo kết quả kinh doanh cũng có nhiều điểm đáng lưu ý. Trong ba năm hoạt động, năm đầu tiên tình hình kinh doanh của công ty bị lỗ trong dự kiến của Ban giám đốc. Hai năm tiếp theo, lợi nhuận sau thuế của công ty tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của tổng doanh thu và tổng chi phí. Đây là một điểm đáng ghi nhận đánh giá sự tiến triển tích cực trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty.
- Vì hình thức kinh doanh của doanh nghiệp là thương mại và hàng hóa là các loại xe bốn bánh chuyên dụng, thương mại và dân dụng nên công ty không thể can thiệp vào việc giảm thiểu chi phí trong giá vốn hàng bán. Do đó, để lợi nhuận trước thuế tăng thì phải giảm các chi phí khác ngoài giá vốn hàng bán xuống. Trong hai năm 2005 và 2006 ta thấy tất cả các chi phí của công ty đều tăng (ngoại trừ chi phí bán hàng năm 2005 giảm 235 triệu và chi phí từ hoạt động tài chính năm 2006 giảm 113 triệu) đặc biệt là sự gia tăng của chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Việc lợi nhuận sau thuế năm 2005 và 2006 tăng đáng kể (năm 2005 tăng 847 triệu, năm 2006 tăng 949 triệu cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty đã được cải thiện rõ rệt. Số lợi nhuận đạt được không phải từ hoạt động tài chính hay liên doanh mà là từ hoạt động kinh doanh ôtô chứng tỏ việc kinh doanh ôtô của doanh nghiệp có xu hướng tiến triển tốt. Doanh nghiệp nên cố gắng duy trì sự tiến triển này.
- Bảng tóm tắt các tỷ số tài chính (dạng so sánh cùng HAXACO), đầu tiên ta thấy khả năng thanh toán hiện thời của công ty khá tốt nhưng khả năng thanh toán nhanh lại không nguyên nhân do hàng tồn kho của doanh nghiệp khá nhiều.
- Tỷ số nợ của công ty thấp hơn nhiều so với HAXACO cho thấy mức độ rủi ro của công ty thấp hơn, cộng với việc khả năng thanh toán lãi vay của công ty cao hơn tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc tăng nguồn vốn của mình bằng cách tăng các khoản vay.
BẢNG 3.1: TÓM TẮT CÁC TỶ SỐ TÀI CHÍNH
Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | HAXACO (2006) | |
Thanh toán hiện thời | 1.344 | 1.224 | 1.192 | 1.066 |
Thanh toán nhanh | 0.179 | 0.139 | 0.278 | 0.561 |
Tỷ số nợ | 52.865% | 55.263% | 50.800% | 78.499% |
Khả năng thanh toán lãi vay | 0.689 | 1.281 | 1.740 | 1.685 |
Vòng quay tồn kho | 1.646 | 2.802 | 6.073 | 5.438 |
Kỳ thu tiền bình quân | 0.000 | 0.045 | 0.684 | 46.602 |
Hiệu suất sd TSCĐ | 3.783 | 6.896 | 9.730 | 12.565 |
Vòng quay tổng tài sản | 1.014 | 1.680 | 2.818 | 2.113 |
Doanh lợi tiêu thụ | -0.405% | 0.592% | 0.790% | 0.853% |
Doanh lợi tài sản | -0.411% | 0.995% | 2.226% | 1.803% |
Doanh lợi vốn tự có | -0.872% | 2.225% | 4.524% | 8.386% |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Tích Các Tỷ Số Về Cơ Cấu Tài Chính
- Phân tích và đánh giá tình hình tài chính công ty TNHH Ôtô Huyndai Nam Việt - 10
- Biểu Kê Nguồn Vốn Và Sử Dụng Vốn Năm 2004 - 2005
- Phân tích và đánh giá tình hình tài chính công ty TNHH Ôtô Huyndai Nam Việt - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
- Trong khi hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty thấp hơn so với HAXACO thì hiệu suất sử dụng tổng tài sản của công ty cao hơn với HAXACO. Điều này cho thấy công ty đã sử dụng vốn lưu động của mình tốt hơn, đặc biệt là không bị chiếm dụng vốn nhiều ở “các khoản phải thu” nhiều như HAXACO (điều này còn thể hiện ở “kỳ thu tiền bình quân”).
- Trong khi năm 2004 tất cả các tỷ số doanh lợi đều nhỏ hơn 0 thì năm 2005 và 2006 các tỷ số này tăng khá đáng kể, trong đó doanh lợi tài sản năm 2006 cao hơn HAXACO. Doanh lợi vốn tự có tuy tăng nhiều nhất trong các loại
doanh lợi nhưng vẫn còn thấp hơn so với HAXACO. Nguyên nhân chính do tỷ số nợ của công ty thấp hơn quá nhiều so với HAXACO.
3.2 BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập và phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Do đó nhu cầu về xe vận tải để vận chuyển hàng hóa, xe vận tải nặng phục vụ cho quá trình xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, xe chuyên dụng dành cho ngành môi trường, xe cứu thương cao cấp phục vụ cho ngành y tế, xe buýt, xe hơi dân dụng… ngày càng tăng. Nắm bắt được nhu cầu của thị trường, công ty TNHH Ôtô Hyundai Nam Việt đã và đang “trình làng” những kiểu xe nhập khẩu mới nhất của tập đoàn ôtô hàng đầu Hàn Quốc Hyundai. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc quảng bá cũng như cạnh tranh với những đối thủ lâu năm (VAMA), chiếm thị phần lớn trên thị trường ôtô Việt Nam như Toyota, Ford, Daewoo… doanh nghiệp vẫn có hướng đi mới của mình và đạt được những thành công nhất định. Qua quá trình tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh cũng như phân tích tài chính công ty TNHH Ôtô Hyundai Nam Việt, em xin phép được đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện tình hình tài chính như sau:
3.2.1 Về thanh toán
Như đã phân tích ở trên, ta thấy khả năng thanh toán hiện thời của công ty được xem như khá ổn định nhưng khả năng thanh toán nhanh lại hơi thấp (đối với cả công ty lẫn HAXACO). Trong trường hợp cần thanh toán nhanh thì cả hai đều phải thanh lý hàng tồn kho của mình.
Trong Bảng cân đối kế toán, ta thấy tài khoản “người mua trả tiền trước” khá nhiều (năm 2006 là 8.6 tỷ). Trong trường hợp cần thanh toán nhanh, công ty có thể sử dụng số tiền này mà không cần thanh lý hàng tồn kho. Đây cũng là một biện pháp cải thiện tình hình thanh toán nhanh của công ty.
Bên cạnh đó, công ty phải tìm cách giải quyết lượng hàng tồn kho, một mặt để nâng cao khả năng thanh toán nhanh của mình, mặt khác giúp công ty tránh được tình trạng ứ đọng vốn. Như đã phân tích, hàng tồn kho phần lớn đã được khách hàng đặt cọc mua nhưng do chưa thanh toán nên phía công ty chưa giao xe. Vậy để
giải phóng lượng hàng đã này, công ty nên đưa ra một số quyền lợi nào đó (ví dụ như tăng chiết khấu hoặc thời gian bảo hành sản phẩm hay trao tăng những phần quà có giá trị) cho khách hàng để khuyến khích họ thanh toán sớm hơn hơn.
Bên cạnh đó, cũng phải cải duy trì một số lượng tiền mặt thích hợp để đảm bảo khả năng thanh toán của công ty.
3.2.2 Về cơ cấu tài chính
Từ công thức Dupont ta xem xét tỷ số nợ:
Doanh lợi tài sản
Doanh lợi vốn tự có =
1 - Tỷ số nợ
Ta thấy doanh lợi vốn tự có tỷ lệ thuận với tỷ số nợ. Trong năm 2006, doanh lợi vốn tự có của công ty tăng lên khá nhiều nhưng vẫn còn thấp hơn đáng kể so với HAXACO. Như đã phân tích ở trên, trong khi doanh lợi tài sản của công ty cao hơn HAXACO nhưng doanh lợi vốn tự có của công ty lại thấp hơn là do tỷ số nợ của công ty quá thấp (tỷ số nợ của công ty là 50.800%, trong khi của HAXACO là 78.499%). Mặc dù tỷ số nợ càng cao thì những rủi ro có thể xảy ra đối với công ty càng cao nhưng trong trường hợp này công ty có thể tăng tỷ lệ nợ phải trả của mình trong tổng số nguồn vốn lên khoảng từ 65% - 70%.
Khi tăng tỷ số nợ lên, doanh lợi vốn tự có sẽ tăng theo mà không quá mạo hiểm vì tỷ số nợ của công ty vẫn còn thấp hơn so với HAXACO.
Khi tăng nguồn vốn lên bằng cách đi vay thì chủ nợ (đặc biệt là ngân hàng) sẽ quan tâm nhiều đến khả năng thanh toán lãi vay. Khả năng trả lãi của công ty cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng sinh lợi và mức độ sử dụng nợ của công ty. Năm 2006, khả năng thanh toán lãi vay của công ty có phần cao hơn HAXACO cho thấy công ty đã có những chính sách tốt để sử dụng nguồn vốn vay của mình. Nếu công ty duy trì được hiệu quả của việc sử dụng vốn vay như năm 2006 thì tình hình tài chính của công ty sẽ được cải thiện khá nhiều, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, khi công ty tăng nguồn vốn của mình lên bằng cách đi vay ngoài việc sử dụng số vốn vay sao cho hiệu quả thì việc tăng các khoản nợ sẽ giúp cho công ty giảm được khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, nghĩa là số thuế phải nộp sẽ ít đi. Điều này cũng giúp cho lợi nhuận sau thuế của công ty được cải thiện. Đây là điểm công ty cần lưu ý.
3.2.3 Về sử dụng tài sản
Như đã phân tích, hiệu suất sử dụng tổng tài sản của công ty cao hơn hẳn của HAXACO nhưng hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty lại thấp hơn đáng kể. Trong khi tài sản cố định của HAXACO là 18.5 tỷ và doanh thu thuần là 232.5 tỷ thì tài sản cố định của công ty là 20.4 tỷ và doanh thu thuần là 198.1 tỷ (công ty có lượng tài sản cố định nhiều hơn nhưng doanh thu thuần lại thấp hơn). Điều này cho thấy HAXACO đã sử dụng hiệu tài sản cố định hiệu quả hơn. Trong năm 2006 tài sản cố định tăng thêm chủ yếu do công ty xây dựng showroom và các trạm dịch vụ theo chuẩn Hyundai với mong muốn nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng doanh thu vào những năm sau. Doanh thu năm 2006 chưa phản ánh đúng hiệu quả của việc đầu tư xây dựng này.
Hiện tại công ty có một kho bảo quản ôtô rất lớn. Theo quan sát, tuy số lượng ôtô trong kho khá nhiều nhưng diện tích của kho này vẫn còn thừa và bị bỏ trống không ít. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng cho phần nhà kho trống này là công ty có thể cắt một phần kho của mình sao cho vừa đủ với định mức hàng trong kho. Phần kho cắt ra có thể được đem cho thuê. Công ty hiện đang tọa lạc tại vị trí đầu tiên tại khu công nghiệp Biên Hòa 2. Đây là một vị trí khá tốt và nếu như tại đây có một phần diện tích được cho thuê (phía cho thuê có thể dùng làm nhà xưởng hoặc văn phòng giao dịch) thì sẽ mang lại một phần lợi nhuận không nhỏ cho công ty.
3.2.4 Về doanh thu
Những khách hàng đặt cọc tiền mua hàng ở công ty được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất đặt cọc mua những loại hàng đã có sẵn trong kho nhưng do chưa có đủ tài chính nên chưa thể thanh toán ngay. Nhóm thứ hai đặt cọc mua những loại hàng chưa được nhập về. Trong năm 2004 và 2005, khi bán hàng cho nhóm khách
hàng thứ nhất, công ty thường có qui định khách hàng phải thanh toán hết giá trị hàng hóa trong thời hạn sáu tháng thì mới được nhận hàng. Điều bất lợi khi công ty sử dụng qui định này là trong vòng sáu tháng đó sẽ có những khách hàng khác hỏi mua các sản phẩm đã được đặt cọc với khả năng thanh toán ngay mà công ty không thể bán được do những khách hàng đã đặt cọc sẽ có thể đến thanh toán số còn lại và nhận hàng bất kỳ lúc nào. Hơn nữa có những mặt hàng khoảng ba tháng hàng mới nhập về một lần, nếu công ty bán chúng cho những khách hàng có khả năng thanh toán ngay mà không kịp nhập hàng về bán cho những khách hàng đã đặt cọc trước thì sẽ ảnh hưởng nặng nề đến uy tín của công ty.
Một biện pháp được đề xuất là trong trường hợp này, nếu công ty nhận thấy khách hàng đã đặt cọc tiền cho mình chưa có nhu cầu nhận xe ngay hoặc đó là những khách hàng quen, thân thiết đồng thời trong lô hàng sắp nhập về có những sản phẩm họ đã đặt cọc thì công ty có thể thương lượng để họ nhường những sản phẩm đó cho những khách hàng cần mua và có khả năng thanh toán ngay. Để thực hiện được giải pháp này, điều bắt buộc là công ty phải lên kế hoạch theo dõi thời gian đặt cọc của từng khách hàng để hàng nhập về kịp giao cho họ. Đây là giải pháp vừa giúp công ty tăng doanh thu, phát triển được thêm khách hàng mới và làm tăng vòng luân chuyển của hàng trong kho, tránh tình trạng ứ đọng vốn.
Năm 2006, công ty đã có chính sách mới là đối với một số khách hàng lớn và có uy tín, công ty sẽ tạo điều kiện cho họ ký hợp đồng nhận hàng trước, số tiền còn lại sẽ được thanh toán trong một thời gian nhất định.
Để có thể tăng doanh thu, ngoài Marketing và chính sách đã sử dụng, công ty nên phát triển phương thức bán hàng theo hình thức trả góp. Đây là một biện pháp có thể giúp công ty mở rộng được phân khúc thị trường của mình. Nếu như trước đây khách hàng của công ty chủ yếu là các doanh nghiệp vận tải, chuyên chở, các công ty môi trường, công ty xây dựng, các doanh nghiệp và những người tiêu dùng có thu nhập cao… thì khi áp dụng chính sách trả góp, công ty sẽ có thể đưa sản phẩm của mình đến với những doanh nghiệp nhỏ (chưa đủ khả năng mua xe) hay người tiêu dùng có thu nhập khá, miễn là họ chứng minh được khả năng chi trả
hàng tháng hay hàng quý của mình. Tuy nhiên khi đưa chính sách này vào sử dụng, công ty phải tính toán sao cho vừa có lợi cho mình, vừa tạo điều kiện thanh toán cho khách hàng.
3.2.5 Về chi phí
Như đã phân tích, vì hình thức kinh doanh của công ty là thương mại nên công ty không can thiệp được vào việc giảm thiểu giá vốn hàng bán vì điều đó phụ thuộc vào nhà sản xuất. Quan sát lại Bảng phân tích kết cấu doanh thu - lợi nhuận - chi phí ta thấy tỷ trọng của tổng chi phí trong tổng doanh thu có xu hướng giảm và năm 2006, tỷ trọng này đã bằng với HAXACO. Đây có thể được xem là một tỷ trọng hợp lý. Tuy nhiên, để tỷ trọng của chi phí có thể tiếp tục giảm, công ty cần phải xem xét lại từng khoản chi của mình. Trong trường hợp có những khoản chi không hợp lý và cần thiết thì cần mạnh dạn cắt bỏ.
Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | ||||
Số tiền | Tỷ trọng | Số tiền | Tỷ trọng | Số tiền | Tỷ trọng | |
Tổng doanh thu | 57,220,281,366 | 100.0% | 104,132,833,007 | 100.0% | 198,433,601,892 | 100.0% |
Tổng chi phí | 57,451,953,252 | 100.4% | 103,517,066,136 | 99.4% | 196,869,078,325 | 99.2% |
Lợi nhuận sau thuế | -231,671,886 | -0.4% | 615,766,871 | 0.6% | 1,564,523,567 | 0.8% |
Khi quyết định cắt giảm chi phí công ty phải cân nhắc hai trường hợp. Thứ nhất, khi chi phí giảm, lợi nhuận trước thuế sẽ tăng lên. Điều này làm công ty phải đóng nhiều thuế hơn. Thứ hai, nếu không cắt giảm chi phí, lợi nhuận trước thuế sẽ thấp đi và công ty sẽ đóng ít thuế hơn. Công ty nên xem xét và tính toán kỹ lưỡng sao cho đạt được lợi nhuận sau thuế cao nhất và số thuế phải đóng là thấp nhất (trên nguyên tắc tuân theo các quy định của pháp luật).
3.3 CÁC BIỆN PHÁP ĐỒNG BỘ KHÁC
3.3.1 Sản phẩm – dịch vụ
Sản phẩm hiện tại của công ty chủ yếu là những loại xe vận tải nặng phục vụ cho ngành vận tải và xây dựng; xe chuyên dụng phục vụ cho ngành xây dựng và
môi trường; xe buýt phục vụ cho ngành vận chuyển hành khách; xe cấp cứu cao cấp phục vụ ngành y tế và xe ôtô bốn chỗ, bảy chỗ dành cho người tiêu dùng cá nhân hoặc các doanh nghiệp.
Theo sự phân tích của báo Tuổi Trẻ số ra ngày 19/06/2007 - Bài “Xe nhỏ cháy hàng” – Và những bài phân tích có liên quan đến thị trường ôtô Việt Nam trên tạp chí Ôtô – Xe máy, trên báo điện tử VnExpress cho thấy xu hướng sử dụng những loại xe nhỏ có giá từ 15,000USD đến 25,000USD, xe SUV đang tăng rất mạnh trong người tiêu dùng Việt Nam. Đối với công ty Nam Việt, ngoài những mặt hàng nhập về đã tạo được uy tín trên thị trường (như Santa Fe, Veracruz, Getz, Coupe) công ty nên cho nhập thêm những loại xe ôtô bốn chỗ nhỏ vì đây là loại hàng đang được thị trường ưa chuộng.
Ngoài kinh doanh xe, công ty nên kinh doanh thêm những mặt hàng bổ trợ cho xe như dầu nhớt. Đây là một biện pháp có thể giúp công ty mở rộng ngành nghề kinh doanh của mình.
Các loại hình dịch vụ của công ty hiện nay khá đầy đủ và chất lượng, đặc biệt là trạm dịch vụ mới xây dựng theo tiêu chuẩn Hyundai nhằm nâng cao chất lượng phục vụ của mình. Trong tương lai, công ty nên xây dựng thêm chương trình bảo trì xe định kỳ hàng tháng hay hàng quý miễn phí cho một số khách hàng lớn dựa trên một số tiêu chí nào đó nhằm xây dựng mối quan hệ thân thiết và được giới thiệu thêm khách hàng mới từ việc phục vụ những khách hàng lớn này.
3.3.2 Các biện pháp quảng cáo
Hiện tại công ty đã xây dựng một trang web và brochure khá hoàn chỉnh nhằm giới thiểu về công ty cũng như những sản phẩm, dịch vụ của mình. Tuy nhiên để tăng tính hiệu quả, công ty nên tạo liên kết trang web của mình với những trang web phổ biến về ôtô như trang www.vnexpress.net; www.vietnamcar.com; DDDN.com.vn…