Lễ Tế Âm Hồn Ngày Thất Thủ Kinh Đô

3. Lễ cúng tế ở Phường Đúc

Một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt 1

Một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam là nghề đúc đồng ở Huế, trung tâm đúc đồng hiện đang còn hoạt động mạnh là Phường Ðúc. Phường Ðúc nằm ở địa phận xã Dương Xuân, tổng Vĩ Dạ, huyện Hương Trà.

Phường Ðúc với nội dung và tính chất sinh hoạt của nó ra đời không nằm trong quy luật liên kết tự nhiên hay có chủ định của những người làm cùng một nghề nghiệp...mà là một sự tụ họp khi nơi đây chọn làm công trường đúc đồng của nhà nước phong kiến. Cho nên ngay từ đầu, sự liên kết của những người cùng nghề nghiệp nằm trong mối liên quan của một công trường Nhà nước. Chính vì vậy, tính chất phường hội ở Phường Ðúc không có nét truyền thống. Sự quy định chặt chẽ về mặt phong tục, việc thờ cúng tổ sư nghề nghiệp, sự bảo vệ bí mật chuyên môn không trở thành quy luật nghiêm nhặt và có tính thống nhất.

Ngoài lễ giỗ tổ hàng năm vào tháng 6 âm lịch, các con buôn tổ chức lễ cúng cầu tài, cầu lộc. Lễ này được thực hiện trên sông Hương.Do việc tìm nguyên liệu đúc là một điều rất khó khăn việc cung cấp nguyên liệu cho các lò đúc tư nhân chỉ có tính cách sống còn đối với họ. Vì tính chất tối quan trọng này nên các thành viên nữ trong gia đình chủ lò phải thân hành đảm trách việc buôn bán và cung cấp nguyên liệu.

Những người đi buôn đồng kết thành một tổ chức chặt chẽ. Bà chủ là người đứng đầu tổ chức này. Bất cứ phụ nữ nào ở Phường Ðúc đi buôn đồng cũng phải theo Bà. Người ta kết 4 hoặc 5 chiếc thuyền làm thành một bằng cúng giữa sông. Người ta lát ngang ván trên các mạn thuyền để làm mặt bằng thờ cúng. Nhiều chiếc thuyền nhỏ khác được kết từ bờ sông ra đến khu bằng cúng. Tất cả những con buôn, đứng đầu là bà chủ, đội một dải lụa điều. Họ đứng thành từng hàng quanh một bàn thờ lớn đặt trên bằng cúng, khói hương trầm nghi ngút. Chủ bái là chủ khấn vái, bái lạy trước. Các con buôn tiếp tục theo lứa tuổi bái lạy sau. Lễ vật cúng thường là thịt heo, xôi gà và hoa quả. Trong buổi lễ này không có thợ đúc nam giới tham gia.

4 Lễ hội Điện Hòn Chén Lễ Hội Điện Hòn Chén hay Huệ Nam Điện thờ Thánh 2

4. Lễ hội Điện Hòn Chén

Lễ Hội Điện Hòn Chén (hay Huệ Nam Điện) thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, hằng năm cử hành lễ hội vào 2 kỳ: tháng ba và tháng bảy. Nghi lễ rất trang trọng.

Về tên gọi và sự tích Thánh Mẫu, có nhiều lối giải thích khác nhau: có khi bà được gọi là Pô Nagar, hoặc Pô Inư Nagar, Muk Juk, Bà Đen, Yang Pu Negara, Pô Ian Inư Nưga, Chúa Ngọc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

Theo ông Tạ Trọng Hiệp, Thiên Y A Na là một từ ghép Hán Việt. Thiên có nghĩa là trời, và một tiếng Chàm. I na, hay tiếng Rhadé: ana, có nghĩa là mẹ, mẫu. Như vậy, Thiên Y A Na có nghĩa đơn giản là Bà mẹ linh thiêng trên trời. Người Pháp và một số nhà biên khảo khác giải thích từ Pô Y An Inư Nưga có nghĩa: Pô = ngài; Y an (Dang : thần, I na: mẹ đã qua đời, Nư ga: xứ sở).

Như vậy Thánh Mẫu Thiên Y A Na được thờ ở điện Hòn Chén có gốc là nữ thần của Chàm, khi người Việt đến định cư ở Thuận Hóa, thấy bà linh thiêng cũng thờ theo. Chữ Thiên là từ Hán Việt được ghép vào Y A Na có nguồn từ đó, sản sinh từ thời phong kiến.

Về sự tích nữ thần, đáng chú ý là sự tích của Chàm và sự tích của người Việt theo truyền thuyết của dân ở Diên Khánh. Sự tích Pô Inư Nagar được kể như sau: Pô Inư Nagar tục gọi là Muk Juk hay Bà Đen là nữ thần được sùng bái nhất. Ngày xưa nữ thần do mây trời và bọt biển sinh ra. Trong số chín mươi bảy người chồng ở hậu cung, Pô Yan Amo là người được yêu mến nhất. Trong cuộc đa duyên với các phu quân, nữ thần sinh được ba mươi tám người con gái, về sau đều được thần hóa như mẹ.

Nữ thần là vị thần tạo lập trời đất, trầm hương và lúa, dạy dân trồng lúa. Trời đặc biệt ưa thích hương thơm của lúa và gỗ trầm, nên nữ thần mới tung lên trời một hạt lúa có cánh trắng như mây. Vua trên trời gieo hạt lúa ấy mà làm nên tất cả mọi giống lúa.

Công đức của nữ thần thật vô vàn. Nhờ công ơn nữ thần, người Chàm sử dụng một ngọn tháp để thờ ở Yjatran (Nha Trang), người Việt gọi là Tháp Bà.

Đó là dạng cổ nhất về thần thoại của Thánh Mẫu.

Dạng mới hơn là các bài văn vần lục bát và song thất lục bát, được dân gian sáng tác và sử dụng trong các lễ hội ở Huế và Nha Trang, lấy nội dung từ bài ký của Phan Thanh Giản ghi vào bia ở Tháp Bà - Nha Trang.

Nội dung sự tích này kể

Thiên Y A Na vốn ở thiên đình, con của Ngọc Hoàng thượng đế, giáng sinh làm một cô bé đêm đến hái dưa trong vườn một cặp vợ chồng già không có con tại làng Đại An. Sau khi bắt được cô, thấy dung mạo dễ thương, đẹp đẽ, họ nhận làm con nuôi. Nhưng một hôm trời lụt, nhớ cảnh Bồng Lai, cô bé tàng hình vào một thân cây kỳ nam trôi ra biển, tấp vào bờ Trung Quốc. Một hoàng tử vớt cây gỗ đem về cung. Nàng hiện nguyên hình. Hoàng tử xin vua cha cưới về làm vợ. Hai người sinh được một trai, một gái. Nhưng nàng lại nhớ quê nhà, nên một hôm biến vào thân cây ấy trôi về quê cũ. Khi trở lại làng xưa, cha mẹ nuôi đã chết từ lâu, nàng lập đền thờ tại núi Đại An rồi cùng con bay về tiên cảnh. Sau đó thường xuất hiện nhiều nơi để cứu nhân độ thế, được nhân dân tôn sùng là Thánh Mẫu, mẹ cả trần gian.

Bên Bắc triều thấy người yêu đi không trở lại, thái tử cho người chèo thuyền đi tìm. Khi gần tới nơi, thủy thủ tỏ vẻ hống hách, dọa nạt dân trong vùng và không biết kính cẩn tượng thần bà được nhân dân đặt trên chóp núi Cũ Huỳnh nên bị trời phạt, thổi một trận cuồng phong đánh đắm thuyền ấy ở cửa biển Đại An. Ngày nay nơi đó nổi lên một gò đá khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ Champa) xem khó hiểu, và từ hồi đó trở đi trên cù lao Yến thường có thần hiển linh cứu nhân độ thế, cầu xin gì cũng được, nên dân trong vùng khắp xa gần đều thiết bàn thờ thờ phụng (theo bản dịch của Thái Văn Kiểm).

Như vậy, đã rõ, nữ thần Thiên Y A Na có gốc là Chàm, được người Chàm tôn thờ từ trước. Tại Huế, Thánh Mẫu được thờ tại điện Hòn Chén, làng Hải Cát, huyện Hương Trà. Nhưng ngôi đền được dựng tại đây từ bao giờ thị chưa ai biết rõ.

Theo một tờ thần sắc do vua Minh Mạng ban cho đền Ngọc Trản đề ngày 8- 5-1834 thì đền đã có tại chỗ dưới thời Gia Long (1802 - 1820). Hẳn kiến trúc của đền này hãy còn đơn giản như lúc bấy giờ.

Người Chàm ở địa phương hẳn là người xây dựng đền đầu tiên để thờ Thánh Mẫu.

Nhiều mẫu chuyện lưu truyền tại Huế cho ta thấy sự linh ứng của Thánh Mẫu. Tài liệu của Dương Văn An trong “Ô châu cận lục” cũng cho ta biết đền có từ trước thế kỷ XVI và rất linh ứng: “Đền Y Na ở xã Khuất Phố, huyện Kim Trà, tục truyền thần là đàn bà, cũng có linh ứng”.

Nhiều câu chuyện khác về sự linh ứng của Thánh Mẫu được truyền tụng trong dân gian kể về sự tuần du của vua Minh Mạng năm thứ 13 (1832), khi đi ngang trước điện Hòn Chén thì có một cây gỗ rất lớn nằm chắn ngang sông, thuyền rồng của nhà vua không qua dược. Vua xuống chiếu truyền quan khâm mạng tuyên đọc trước cây gỗ và trước điện, tự nhiên cây gỗ quay lại dọc sông và chìm lìm để lối cho thuyền rồng của nhà vua và thuyền quân lính tiến lên.

Délétie, trong một bài báo kể lại truyền thuyết vua Thiệu Trị đi thuyền với đám cung nữ, một bà phi lỡ đay làm rơi xuống sông ống nhổ bằng vàng vào địa điểm gần điện; vua không tin khi người ra khuyên ông nên cầu khấn nữ thần, nhưng sau khi khấn vái thì cái ống nhổ vàng nổi lên trên mặt nước và trôi vào bờ. Vua Đồng Khánh là người tin tưởng nhất vào sự linh ứng của Thánh Mẫu. Mẫu cho biết là ông sẽ làm vua trong vòng ba năm. Quả đúng như vậy. Sau khi tức vị, năm 1886, năm 1886, vua Đồng Khánh cho xây lại đền này một cách khang trang, đổi tên ngôi điền thành Huệ Nam (ân huệ trời Nam).

Hằng năm, xuân thu nhị kỳ, tại Huệ Nam Điện vào thời phong kiến, từ triều Đồng Khánh có quốc tế. Vị chủ tế là một triều đại diện triều đình.

Kỳ xuân tế, từ năm 1910, triều đình cử đại diện đến chủ tế nhằm tháng ba, còn kỳ thu tế do dân làng Hải Cát phụ trách nhằm tháng bảy.

Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Đám rước Thiên Y Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.

Đám rước cử hành trên những chiếc thuyền ghép lại thành những chiếc bè lớn gọi là bằng. Trên mỗi chiếc bằng có bàn thờ Thánh mẫy cùng với long kiệu. Trên long kiệu có hòm sắc của vua ban Thánh Mẫu. Liền kế đó là một chiếc bằng khác có bàn thờ, kệu và hòm sắc của nhị vị Thượng Ngàn và Thủy Cung Thánh Mẫu. Sau đó là những chiếc bằng chở các tự khí, tàn tán cờ quạt.

Long kiệu của Thánh Mẫu là kiệu thêu, do các trinh nữ ăn mặc sặc sỡ khiêng, còn các bà, người mang bình hương, ống trầu, bình trà, hòm dựng đồ trang sức, kẻ mang cờ, biển, tàn, lọng, gối, quạt v.v... Các thanh niên thì vác các đồ lỗ bộ, bát bửu và các tư lự khí khác. Đám rước đầy màu sắc rực rỡ, không khí trang nghiêm.

Khi đoàn bằng ghé bến, đám rước chuyển từ sông lên bộ, đi cho đến đình làng Hải Cát, có phường bát âm đi sau kiệu.

Trong lúc đoàn bằng khởi hành từ bên trước Huệ Nam Điện, các bà đồng đã cùng nhau lên đồng ngay ở chiếc bằng có bàn thờ Thượng Thiên Thánh Mẫu. Nhưng cuộc lên đồng hầu bóng tiếp tục cho đến khi đoàn bằng đi tới bờ, nơi đám rước chuyển từ sông lên bộ.

Dân làng đi theo đám rước cùng với các thiện nam tín nữ. Nghinh thần xong, dân làng làm lễ Túc Yết (tức yết kiến kính trọng) theo nghi thức cổ truyền.

Suốt đêm, trên mặt sông Hương và có khi ở trước đình làng là các cuộc hát thờ, hầu đồng, hầu bóng. Ngày hôm sau là Lễ chánh tế, tổ chức từ 2 đến 5 giờ sáng. Sau đó là lễ Tống thần (tiễn thần về vị trí cũ). Mặt sông Hương lại bùng lên với âm nhạc, pháo nổ tưng bừng, hàng trăm chiếc thuyền, bằng chen chúc, những bộ lễ phục rực rỡ, phản ánh trên mặt nước dưới tia nắng vàng tươi thắm ban mai. Lễ hội điện Hòn Chèn được đánh giá là một lễ hội đầy màu sắc và tưng bừng dông đảo tín đồ vào bậc nhất ở Thừa Thiên Huế.


5 Lễ tế âm hồn ngày thất thủ kinh đô Có lẽ chẳng nơi nào trên thế giới 3

5. Lễ tế âm hồn ngày thất thủ kinh đô

Có lẽ chẳng nơi nào trên thế giới cúng âm hồn mà quy mô tổ chức lại có tính cách toàn dân trong một thành phố như ở Huế trong ngày lễ cúng âm hồn 23 tháng 5 âm lịch. Đây là một hình thức cúng tế mà đơn vị tổ chức nghi lễ vừa có tính chất đơn lẻ trong

từng gia đình, lại vừa có tính chất cộng đồng trong từng đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghề, cùng ở trong một thôn, xóm, phường.

Tại sao toàn dân Huế lại tổ chức cúng âm hồn trọng thể như vậy, và lý do nào tập tục cúng lễ này lại còn giữ được qua bao nhiêu biến động của cuộc sống. Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ của đất nước. Ngày 1-8-1883, Pháp nã đại bác vào Thuận An. Tối 20 tháng 8, Thuận An thất thủ; đột phá khẩu vào kinh thành đã mở. Triều đình hoang mang lo sợ, chỉ có Tôn Thất Thuyết cương quyết lập trường đánh Pháp. Cuộc chiến đấu tự vệ mà ông và các đồng sự ráo riết chuẩn bị từ lâu đã đến lúc phải bùng nổ. Đêm 04-7-1885, Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc vũ trang chống Pháp. Đánh vào sào huyệt giặc ở Mang Cá và khu Tòa Khâm bên sông Hương. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo, nhưng vì khí giới kém nên bị thua trận. Địch chiếm thành và đốt phá, hãm hiếp, giết chóc cướp bóc không từ một ai. Một cuộc chạy loạn hết sức đau thương và bi thảm xảy ra. Hầu như không có gia đình nào lại không có người bỏ mạng trong biến cố này. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là số dân chúng ở trong thành. Ngày 23 tháng 5 âm lịch (5-7-1885) từ đó trở về sau đã biến thành ngày giỗ lớn, ngày “quẩy cơm chung” hằng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn: quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: hoặc bị dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp, hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sỉa chân rơi xuống hồ ao

dày đặc trong thành, nhất là hồ Tịnh Tâm v.v... trong khoảng từ 2 giờ đến 4 giờ sáng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu.

Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5. Nhưng đối với các tư gia thì có thể tùy theo từng gia đình mà tổ chức từ 23 tháng 5 đến 30 tháng 5.

Với các tổ chức tập thể và thôn phường trong thành phố, ngày cúng lễ cũng không quy định một cách cứng rắn. Nhưng thông thường ngày chính lễ vẫn là ngày 23 tháng 5. Những tổ chức cúng âm hồn ngày 23 tháng 5 là do nhân dân tự động kết hóp tổ chức ở các thôn, xóm, phường, xã ở trong tỉnh, các người cùng nghề nghiệp, chung sinh hoạt như tiểu thương các chợ lớn, nhỏ, các khuôn hội, chùa chiền, các tổ chức từ thiện. Hầu như toàn thể gia đình và tổ chức tập thể ở Huế đều nao nức cúng âm hồn do xuất phát từ lòng cảm thương những người bị chết trong biến cố một cách bi thương và oan uổng, hồn bơ vơ vất vưởng, không có ai cúng cấp cho nên cúng âm hồn có ý nghĩa cao đẹp là công cho “thập loại chúng sinh” chứ không hẳn cúng cho thân nhân trong gia đình mình. Tính nhân bản rộng lớn vả đẹp đẽ là ở chỗ đó

Từ ngày 23 tháng 5, nếu là một đu khách mới đến Huế lần đầu, người ta sẽ ngạc nhiên khi thấy vô số rạp được dựng lên để cúng âm hồn trong thành phố. Nhạc cúng lễ vang động khắp nơi, hương trầm nghi ngút tỏa cả đêm lẫn ngày. Ban đêm các thời cúng của từng gia đình được đặt trước mặt nhà, hương đèn được đặt sẵn. Lễ vật cúng ít nhiều tùy gia cảnh nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo muối, bông ba hoa quả, hương, nhang trầm, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc cau trầu rượu. Đặc biệt trong lễ cúng 23 tháng năm này, từ gia đình cho đến tập thể, phải nhớ có một bình lớn nước hoặc một thùng nước chè đầy và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người cúng tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, và chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông suối trong rạng ngày 23 tháng 5.

Đó là lòng thương người chết vất vưởng dọc đường, dọc sá nên bàn cúng phải đặt trước sân (nếu là người thân và chết ở trong nhà thì mới bày bàn cúng ở

bàn thờ). Rõ ràng tập tục cúng âm hồn này thể hiện một tấm lòng nhân hậu bao la của người cư dân xứ Huế.

Nghi thức cúng âm hồn trang trọng nhất được tổ chức tại các am miếu trong thành phố Huế. Miếu âm hồn được thành lập lâu năm nhất là ngôi miếu ở góc đường Mai Thúc Loan và Lê Thánh Tôn hiện tại, nằm ở phía đông nội thành, cách cửa Đông Ba chừng 300 mét, ngôi miếu này được xây dựng vào năm 1895, sau biến cố thất thủ kinh đô mười năm, trải qua các cuộc đổi thay, nay vẫn còn.

Tiến trình nghi lễ cúng tại miếu âm hồn hằng năm như sau:

- Ngày 22 tháng 5, dựng rạp ngoài trời, trang hoàng khu vực cúng tế ở miếu và bàn cúng lễ ở ngoài trời. Có năm lại thiết lập đài chiến sĩ trận vong trước miếu.

- Sáng 23 tháng 5, khoảng 7 giờ sáng làm lễ khai kinh, tụng kinh.

- Trưa 23 tháng 5, cúng ngọ theo nghi thức tôn giáo.

- Chiều 23 tháng 5, lúc 14 giờ làm lễ tế cúng âm hồn theo nghi thức tế lễ của Khổng giáo. Quan trọng nhất là ông chủ tế và ông xướng lễ. Tại đài chiến sĩ trận vong thì làm lễ truy điệu.

Các người đảm nhiệm việc cúng lễ y phục chỉnh tề theo quy định. Phường bát âm được mời đến để cử nhạc trong buổi lễ. Buổi lễ kéo dài suốt cả buổi chiều. Phần chính trong buổi lễ là đọc văn tế.

Qua nhiều bản văn tế sưu tầm được, chúng ta thấy người viết văn đã truyền một niềm xúc động vô biên cho người dự lễ:

“Lô nhô trẻ dìu già, ông dắt cháu, chân còn đi đầu gục lìa vai.

Lao nhỏ con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt xương đã chất đống. Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời. Tội tình thay lũ trẻ trong nôi, cắt cớ sao sa, chết đờ trắng bụng.

Thương mấy cụ khiêng sơn nón đấu, nặng nợ cơm vua áo chúa, được da ngựa bọc thây mới sướng, tức vì sao “tử bất thành danh”

Tủi mấy cô áo chít quai trơn, vui niềm tài tử giai nhân, nỡ vũng bùn chôn ngọc cho cam, uổng cái sổ “sanh nhi vô dụng”.

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 27/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí