Môi trường – Quy hoạch đô thị
Trong những năm gần đây, sự tác động của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa không chỉ mang đến một diện mạo mới cho bộ mặt thành phố mà còn đặt ra nhiều thách thức đối với việc giữ gìn môi trường và quy hoạch đô thị. Trong thời gian qua, UBND thành phố đã xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường đồng thời tập trung công tác bảo vệ môi trường, phân loại cơ sở sản xuất gây ô nhiễm để xử lý; thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, chủ động ứng phó với thiên tai; đảm bảo 100% dân cư khu vực đô thị, 92% dân cư khu vực nông thôn được dùng nước sạch.
Bảng 1.4. Bảng đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu môi trường
Đơn vị tính: %, tỷ đổng
Chỉ tiêu | Đơn vị tính | Thực hiện năm 2012 | Ước thực hiện 2013 | Kế hoạch năm 2014 | Ghi chú | |
1 | Tỷ lệ che phủ rừng | % | 5,37 | 5,4 | 5,5 | Có cây cao su |
2 | Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở nông thôn | % | 89,4 | 92 | 95 | |
3 | Tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở đô thị | % | 100 | 100 | 100 | |
4 | Tỷ lệ các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý | % | 100 | 100 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu phát triển du lịch gắn với bảo tồn các di sản ở thành phố Kon Tum - 2
- Điều Kiện Tự Nhiên – Đặc Điểm Kinh Tế, Văn Hóa, Xã Hội
- Một Số Chỉ Tiêu Chủ Yếu Về Y Tế Trên Địa Bàn Thành Phố
- Nghiên cứu phát triển du lịch gắn với bảo tồn các di sản ở thành phố Kon Tum - 6
- Các Hình Thức Lưu Trú Được Du Khách Sử Dụng Khi Đến Thành Phố Kon Tum20
- Mức Độ Hài Lòng Về Dịch Vụ Du Lịch Tại Thành Phố Kon Tum Của Khách Du Lịch26
Xem toàn bộ 186 trang tài liệu này.
Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom | % | 75 | 80 | 85 | ||
6 | Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý | % | 100 | 100 | 100 | |
7 | Kinh phí chi sự nghiệp môi trường | Tỷ đồng | 43,061 | 35,0 | 50,0 | Chi cho công ty môi trường đô thị |
Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường, thành phố Kon Tum
Vấn đề quy hoạch đô thị
Hiện nay, thành phố Kon Tum là một đô thị loại III và đang phấn đấu để đạt 70% tiêu chí của một đô thị loại II (đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới) trong năm 2015. Vấn đề quan trọng trong quy hoạch đô thị của thành phố là tạo ra một không gian sống hiện đại, khoa học, có dấu ấn đặc trưng để ngoài việc đáp ứng đủ các yêu cầu xếp hạng đô thị, hình ảnh của Kon Tum sẽ ấn tượng hơn với bạn bè bốn phương. Đây cũng là một cách để tăng thu hút đầu tư và sự quan tâm của khách du lịch như các thành phố: Đà Nẵng, Bình Dương...đang làm. Theo đúng nội dung của Quyết định về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị tỉnh Kon Tum đến năm 2020, định hướng đến năm 2025” đã đưa ra quan điểm phát triển: Quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị tỉnh Kon Tum tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trên địa bàn tỉnh. Với các mục tiêu cụ thể dành cho thành phố Kon Tum:
Đến năm 2015, thành phố Kon Tum đạt 70% mức tiêu chuẩn của đô thị loại II (vùng cao, vùng sâu, biên giới)
Đến năm 2020, phấn đấu xây dựng thành phố Kon Tum trở thành đô thị loại II trước hạn.
Lấy thành phố Kon Tum là hạt nhân của vùng trung tâm, làm động lực thúc đẩy phát triển cho các đô thị thuộc các huyện Đăk Hà, Sa Thầy và Đăk Tân thuộc huyện Kon Rẫy.
Trong quá trình thực địa của mình, chúng tôi nhận thấy việc quy hoạch của thành phố chưa thực sự khoa học và có trọng điểm. Về mặt cảnh quan, Kon Tum thiếu đi những khuôn viên xanh xen kẽ các công trình xây dựng, không có điểm nhấn như một quảng trường rộng và hiện đại ở Pleiku, một công trình kiến trúc nổi bật...Địa điểm của các cơ quan hành chính của thành phố không phải là một khu như thường thấy mà lại cách xa nhau khiến cho việc hoàn thành các thủ tục hành chính của người dân gặp nhiều khó khăn ví dụ: UBND thành phố ở đường Nguyễn Huệ, chi cục thống kê thành phố ở đường Ure, Phòng Tài nguyên – Môi trường ở đường Nguyễn Trãi, Phòng Văn hóa – Thông tin ở đường Quy Hoạch sau quảng trường 16/3... Việc đánh tên đường, chia các tuyến phố chưa rõ ràng gây khó khăn cho việc đi lại của người dân cũng như du khách.
Đề án tái định cư, giãn dân các làng đồng bào dân tộc thiểu số nội thành thành phố Kon Tum đã được chỉ đạo triển khai trong mấy năm gần đây. Bắt đầu từ việc tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân các làng đồng bào dân tộc thiểu số tại phường Thống Nhất và phường Quang Trung; hoàn thành công tác xét duyệt giao đất sản xuất cho các hộ đủ điều kiện và triển khai lập thủ tục giao đất và triển khai giao đất cho các hộ ngay sau khi hình thành các tuyến đường trong quy hoạch...
1.2. Di sản thiên nhiên
Xem xét trên địa bàn của thành phố, các di sản thiên nhiên không nhiều và không phải là thế mạnh có thể đưa vào khai thác được. Để có thể phát triển du lịch tạo thành các tour, tuyến du lịch thì cần có sự kết hợp với các điểm du lịch tự nhiên ở các huyện lân cận như trong đó phải kể đến: Khu du lịch sinh thái Măng Đen (Kon Plông), Vườn Quốc gia Chư Mom Ray (Sa Thầy), Rừng đặc dụng Đăk Uy (Đăk Hà), Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh ( Đăk Glei), Khu vực lòng hồ Yaly...
Di sản thiên nhiên tiêu biểu Sông ĐăkBla
Điểm đặc biệt của thành phố Kon Tum cũng như của tỉnh Kon Tum là có dòng sông ĐăkBla như một dải lụa mềm chảy vắt ngang qua thành phố, dòng sông này không những đem lại nguồn nước và nguồn phù sa màu mỡ cho sản xuất nông nghiệp của nhân dân mà còn là một trong những hành trình khám phá du lịch của mọi du khách gần xa khi đến với Kon Tum.
Cùng với cầu treo Kon K’lor, sông Đăkbla đã tạo nên một cảnh đẹp nên thơ dành cho du khách đến với thành phố, là điểm nối giữa thành phố và các làng dân tộc Kon K’lor, Kon K’tu...
Một số điểm du lịch thiên nhiên phụ cận
Rừng đặc dụng Đăk Uy (Đăk Hà):
Cách thành phố Kon Tum 25Km về phía Bắc, theo QL 14. Rừng có diện tích 690 ha, nằm ở một địa hình bằng phẳng, thuận lợi về giao thông; khu vực này có nhiều loại gỗ quý, trong đó nhiều nhất là gỗ trắc. Rừng còn dấu vết của các loài động vật quý hiếm. Hiện nay, nhà đầu tư du lịch đã xây dựng nơi đây thành một khu du lịch sinh thái. Hàng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch đến tham quan , dã ngoại và thưởng thức những món ăn dân dã và đặc sản, mang đậm phong cách địa phương ở nơi đây.
Rừng thông Măng Đen với Khu du lịch sinh thái Măng Đen (Kon Plông)
Từ Kon Tum theo QL 24 về hướng Đông khoảng 55km, du khách đến một rừng thông bạt ngàn trên bình nguyên bao la ở độ cao trên 1.100m so với mực nước biển. Ở đây, có những cây thông được trồng từ lâu, sừng sững cao vút. Hiện nay khu rừng thông đã được quy hoạch thành nhiều khu, tuyến, điểm du lịch với hệ thống biệt thự, nhà nghỉ đầy đủ các tiện nghi và dịch vụ du lịch, ngày càng thu hút nhiều du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng.
1.3. Di sản văn hóa
Có thể nói rằng, di sản văn hóa là thế mạnh của du lịch tỉnh Kon Tum nói chung và thành phố Kon Tum nói riêng. Ở đây có sự pha trộn giữa văn hóa của
người Kinh, văn hóa phương Tây với văn hóa của người dân tộc thiểu số, sự ảnh hưởng của tôn giáo, những yếu tố lịch sử, cách mạng với hiện đại....
1.3.1. Di sản văn hóa tiêu biểu
1.3.1.1. Di sản văn hóa vật thể Nhà thờ Gỗ Kon Tum
Nhà thờ chính tòa Kon Tum hay còn được gọi là nhà thờ Gỗ, là một nhà thờ Giáo hội Công giáo nằm ở thành phố Kon Tum. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1913 do các linh mục người Pháp khởi xướng, hiện nay dùng làm nhà thờ chính tòa, nơi đặt ngai tòa của vị giám mục giáo phận Kon Tum.
Nhà thờ này theo kiến trúc Roman kết hợp với kiến trúc nhà sàn của người Bahnar - sự kết hợp giữa phong cách châu Âu và nét văn hóa của Tây Nguyên Việt Nam.
Nhà thờ được xây dựng hoàn toàn bằng phương pháp thủ công với chất liệu hoàn toàn bằng gỗ, trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là gỗ cà chít. Các bức tường của nhà thờ đều được xây bằng kiểu vữa trộn rơm, một kiểu làm nhà truyền thống ởmiền Trung Việt Nam.
Ngoài ra trong khuôn viên nhà thờ còn trưng bày các sản phẩm dân tộc và tôn giáo, các cơ sở may, dệt thổ cẩm, cô nhi viện.
Di tích ngục Kon Tum
Di tích lịch sử Ngục Kon Tum được Bộ VHTT & Dl công nhận theo quyết định số 1288/QĐ- VHTT ngày 16/11/1988. Di tích này nằm trên đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum.
Nhà lao được xây dựng trong khoảng từ 1915-1917, tuy không có quy mô lớn nhưng lại khét tiếng tàn bạo trong thời kỳ 1930-1931. Chính tại nhà tù này, ngày 25-9-1930, đồng chí Ngô Đức Đệ đã triệu tập một cuộc họp bí mật tại phòng biệt giam của mình, tuyên bố thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Kon Tum.
Hiện nay, về với di tích lịch sử Quốc gia - Ngục Kon Tum, du khách sẽ được thăm quan quần thể di tích, bao gồm nhà tưởng niệm, nhà truyền thống, nhà đón tiếp, cụm tượng đài "Bất khuất" và hai ngôi mộ tập thể nằm bên bờ sông Đăk Bla lộng gió. Khu di tích đã trở thành nơi thăm viếng của nhân dân và các đoàn khách trong và ngoài nước khi đến Kon Tum.
Chùa Tổ Đình Bắc Ái
Toạ lạc trên ngọn đồi trước đây vốn là rừng già hoang vu, được khởi công xây dựng vào năm 1932, vật liệu xây dựng chùa chủ yếu được làm bằng mè tre, vách đất, mái lợp ngói vảy. Khi hoàn thành chùa được đặt tên là Tổ Đình Bác Ái. Dưới thời vua Bảo Đại, chùa được sắc phong "Sắc tứ Bác ái tự" và tặng hai câu đối, hiện được khắc sơn son thiếp vàng bên hai cột trước Đại Hùng bửu điện: Kon Tum thắng cảnh Đại Nam nhất thống d lai - Bác i danh lam Bảo Đại bát niêm y thỉ
Nhìn tổng thể kiến trúc, chùa Tổ đình Bác Ái xây dựng theo hướng Bắc Nam, kiểu chữ Môn, mở đầu cho hướng đó là cổng tam quan án ngự, đến nhà Chánh điện ở trung tâm và 2 bên tả hữu là Đông Lang và Tây Lang. Chánh điện gồm 3 gian 2 chái. Cổ lầu chia làm 3 gian tiền đường, trung điện, và thượng điện. Mái lợp ngói, tường gạch quét vôi, trần đóng la phông. Các vì, kèo, cột đều dùng các loại gỗ quý như sao tía, trắc, cà chít, được các nghệ nhân người Huế chạm trổ trau chuốt, công phu. Gian này thờ Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh… Đặc biệt thờ một tấm bia ghi công đức của ngài Đại uý Pháp Quenin và trụ gỗ biểu tượng 7 đầu lâu của sĩ quan Nhật tự vẫn tại sân chùa vào cuối Thế chiến thứ II.
Bên ngoài chánh điện là Hoa Viên, nơi tập trung các bia mộ, tháp, miếu thờ Thần hoàng Bổn cảnh, sơn thần, đoàn quán và nhà trù. Qua nhiều lần trùng tu, Chùa Tổ đình Bác Ái nét kiến trúc ban đầu đã bị thay đổi, một số điểm điêu khắc độc đáo như rồng chầu, dây cuốn, đã không còn. Hệ thống tượng thờ được phủ lớp đồng sáng, không giữ được nét đẹp nguyên sơ. Tuy nhiên, một số hiện vật quý giá mang giá trị nghệ thuật tạo hình như: Tượng Tam tòa Thánh Mẫu, tượng Quan Âm bằng gốm men rạn, hoành phi, câu đối, hộp sắc phong, bửu ấn…vẫn còn được trưng bày, phảng phất vết tích thời gian.
Tòa Giám mục Kon Tum
Toà giám mục Kon Tum tên gọi đầy đủ là Chủng viện thừa sai Kon Tum, được xây dựng vào năm 1935. Tòa Giám mục là sự kết hợp hài hoà giữa lối kiến trúc phương Tây với lối kiến trúc dân tộc bản địa truyền thống. Trừ hàng trụ dưới sàn nhà làm bằng xi măng cốt thép, còn lại toàn bộ ngôi nhà được xây dựng bằng
các loại gỗ quý, có độ bền cao với thời gian. Nằm khuất sau hai rặng đại luôn rợp bóng mát, toà giám mục mang dáng vẻ yên bình như chính nhịp sống của người Tây Nguyên. Một trong những điểm nhấn tại Toà giám mục Kon Tum là căn nhà truyền thống, có thể coi đây là một bảo tàng nhỏ về vật dụng sinh hoạt, nông cụ, vật thể văn hóa các dân tộc bản địa đang sinh sống trên địa bàn. Các hiện vật, bản đồ trưng bày trong chủng viện đều rất giá trị, được chạm khắc bằng gỗ tỉ mỉ. Đây là nơi không thể bỏ qua khi du khách đến Kon Tum tìm hiểu lịch sử, văn hóa, đời sống người dân vùng đất mến khách này.
Cầu treo Kon K’lor
Cầu nối liền hai bờ của dòng Đăk Bla, đứng giữa cầu, du khách sẽ thấy tâm hồn mình như thoáng đạt hơn, dưới chân cầu là dòng sông mải miết chảy, xung quanh là làng mạc và những bãi mía, ruộng ngô, đồng lúa. Cầu treo Kon K’lor là điểm du lịch lý thú đối với du khách gần xa khi đến Kon Tum. Bên cạnh cầu treo là nhà rông văn hóa thuộc phường Thắng Lợi - nhà rông văn hóa truyền thống lớn nhất Tây Nguyên.
Làng văn hóa Kon Jơ Ri
Vượt qua cầu treo Kon K’lor khoảng 3 km, du khách đến làng văn hóa Kon Jơ Ri. Làng văn hóa Kon Jơ Ri nằm bên bờ Nam sông Đăk Bla, thuộc xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum, liền kề với làng cổ Kon K’tu. Hai làng này đều là của người dân tộc Bahnar bản địa.
Hiện tại ở Kon Jơ Ri gần như chưa có hoạt động khai thác du lịch. Trong làng có thác nước đẹp, còn khá nhiều nhà sàn truyền thống. Tuy nhiên, dân làng khá e ngại với việc tiếp xúc với người lạ. Đường lên làng khá khó khăn.
Làng Kon K’tu
Làng có 92 hộ với 530 nhân khẩu (năm 2012). Người dân ở đây sinh sống bằng nghề nương rẫy nhìn chung còn giữ được phong cảnh hoang sơ, thanh bình. Đó là những con đường quanh co lượn theo làng, những cánh đồng lúa nước, những bãi mía xanh ngắt dọc theo bờ sông Đăk Bla, những vườn cây ăn quả, những nếp nhà sàn đơn sơ, cách đó khoảng 2km là thác H’lay rất đẹp. Đường sá ở đây đã được nhà nước đầu tư đi lại tương đối thuận tiện. Làng đã bắt đầu làm du lịch từ năm
1997. Công ty du lịch Sinh thái Miền Cao cũng đầu tư bước đầu để xây dựng một số dịch vụ du lịch và hướng dẫn người dân ở đây cách thức làm du lịch. Hiện đã thu hút được một lượng khách quốc tế đến tham quan. Đến đây du khách có thể ngủ qua đêm ở nhà rông, được thưởng thức đêm lễ hội cồng chiêng với điệu múa xoang bên bếp lửa bập bùng; đội cồng chiêng của làng có 18 người; đội múa xoang có 30 người. đến đây du khách được ăn những món ăn độc đáo do người dân tộc Bahnar bản địa chế biến. Khách du lịch cũng có thể tham quan, tìm hiểu những phong tục, tập quán, sinh hoạt đời thường với người dân hoặc tham quan tour du lịch sinh thái, leo núi, tắm sông, bơi thuyền trên dòng sông Đăk Bla...Bên cạnh đó, đây cũng là một làng nghề truyền thống với nghề dệt vải. Tại thành phố Kon Tum hiện nay có phòng trưng bày các sản phầm dệt của người Bahnar tại phường Thắng Lợi và ngay tại làng, người dân cũng bán các sản phẩm khăn, túi, bộ quần áo với giá giao động từ vài trăm nghìn đến hàng triệu.
Làng Kon K’lor
Kon K’lor thuộc xã Đăk Rơ Wa, phường Thắng Lợi. Kon K’lor được chia làm 2 thôn nhỏ: Kon K’lor 1 và Kon L’lor 2, lấy ranh giới là cầu treo Kon K’lor.
Thôn Kon K’lor 1 nằm trên địa bàn phường Thắng Lợi với khoảng 130 hộ dân trong đó khoảng 30 hộ là người Kinh còn lại là người Bahnar cùng sinh sống. Chính đặc điểm này khiến cho người dân ở đây nói tiếng phổ thông tốt hơn, cởi mở trong giao tiếp hơn dân bên thôn Kon K’lor 2. Con em của thôn có nhiều người đã học đến cao đẳng- đại học. Trong địa bàn thôn, có nhà rông văn hóa thuộc loại to nhất Tây Nguyên. Bên cạnh đó còn giữ lại một số nhà sàn truyền thống. Hầu hết nhà của đồng bào trong khu vực này đã chuyển thành nhà xây như của người Kinh hoặc họ dựng mới nhà sàn nhưng xây cột bê tông, gầm được xây kín lại để chứa đồ chứ không để thông thoáng như kiến trúc truyền thống...Thôn có 1 xưởng dệt vải do chị Y Hanh làm chủ. Chị là người đã tham gia khóa đào tạo về nghiệp vụ du lịch ngắn hạn của Sở VH-TT- DL. Khi có mối hàng, chị thuê nhân công (chủ yếu là phụ nữ) từ cả 2 thôn đến làm. Hàng được làm ra sẽ được bán và trưng bày ở nhà rông.
Thôn Kon K’lor 2 ở phía bên kia cầu (vốn ở bên phường Thắng Lợi nhưng do chính sách giãn dân của thành phố nên đã sang khu vực này sinh sống) với