LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thực hiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, vốn của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trong giúp doanh nghiệp đủ khả năng canh tranh và thức đẩy phát triển. Công tác quản lý sử dụng hiệu quả nguồn vốn bao gồm nhiều khâu, nhiều phần hành khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ gắn bó tạo thành một hệ thống quản lý hiệu quả. Trong số đó, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động là một mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Bởi nó phản ánh giám đốc tình hình biến động của thành phẩm, quá trình tiêu thụ và xác định kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Tình hình nghiên cứu:
Từ trước đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu về nguồn vốn lưu động song vấn đề về sử dụng nguồn vốn lưu động tại các công ty hoạt động trong từ lĩnh vực khác nhau có những đặc điểm khác nhau, vì vậy từ nghiên cứu đối tượng cụ thể là loại hình công ty TNHH Điện tử tin học Phúc Quang để có cái nhìn tổng quát về các công ty hoạt động theo linh vĩnh trên.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu về những vấn đề lý thuyết cơ bản về vốn lưu động trong doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng nguồn vốn lưu động tại một công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2010.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động tại công ty TNHH điện tử tin học Phúc Quang - 1
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hiệu Quả Sử Dụng Vốn Lưu Động Trong Doanh
- Lý Do Phải Giữ Tiền Mặt Và Lợi Thế Của Việc Giữ Đủ Tiền Mặt.
- Tình Hình Quản Lý Và Sử Dụng Vốn Lưu Động Tại Công Ty Tnhh Đt
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
- Nêu ra những thành tựu và nguyên nhân về vấn đề sử dụng nguồn vốn lưu
động tại công ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu
động tại công ty.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu về nguồn vốn lưu động tại công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang.
Trên cơ sở lý thuyết kết với thực tế việc sử dụng nguồn vốn lưu động tại công ty để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng để nghiên cứu là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động
của Công ty, phương pháp nghiên cứu đề tài là:
- Thu thập thông tin qua việc lấy số liệu bản cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các sổ chi tiết, các hợp đồng ... và đặc điểm hoạt động tại Công ty.
- Thống kê
- Phân tích – tính toán
- So sánh
6. Kết quả nghiên cứu:
Căn cứ và thực trạng sử dụng nguồn vốn lưu động của công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang nhằm đưa gia các giải pháp giúp công ty sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn lưu động cua công ty.
7. Kết cấu của khoá luận tốt nghiệp:
Đề tài được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích tình hình quả lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang.
Kết luận:
Đồ án sử dụng số liệu từ báo cáo tài chính của Công ty TNHH ĐT TH Phúc Quang trong 3 năm 2008, 2009 và 2010 để làm cơ sở phân tích cho đề tài. Đồng thời sử dụng các phương pháp phân tích:phương pháp so sánh; phương pháp thay thế liên hoàn; phương pháp tính số chênh lệch để phân tích, xem xét, đánh giá và đưa ra biện pháp cho công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty.
Qua thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế tại Công ty, với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng ban trong Công ty, đặc biệt là sự tận tình chỉ bảo và hướng dẫn của thầy giáo TS. Lưu Thanh Tâm đã giúp em hoàn thành đề tài Đồ án tốt nghiệp của mình. Với quỹ thời gian thực tập và làm Đồ án còn hạn chế cộng với vốn kiến thức còn ít ỏi của mình nên chắc chắn Đồ án tốt nghiệp còn nhiều khiếm khuyết, quá trình phân tích còn chưa sâu sắc và sát thực. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu của Ban lãnh đạo Công ty, thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc để Đồ án tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn lưu động trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động các doanh nghiệp còn cần phải có các đối tượng lao động như nguyên liệu, nhiên liệu, công cụ, dụng cụ khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động này chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên xét về hình thái vật chất được gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Giá trị các loại tài sản lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm từ 25 - 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những tài sản lưu động. Sự vận động của đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể biểu diễn khái quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ lưu thông tiền – hàng hoá
Ở giai đoạn (1) doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên nhiên vật liệu, công cụ dụng cụ để dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn (2) nguyên nhiên vật liệu ở khâu dự trữ được đưa vào sản xuất, tại đây tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động thông qua sự hoạt động của con người. Quá trình này làm cho đối tượng lao động bị biến dạng và chuyển sang hình thái hiện vật khác. Cùng với quá trình này một số bộ phận khác của đối tượng lao động như nhiên liệu, năng
lượng, công cụ lao động nhỏ,...Cũng bị tiêu hao trong quá trình sản xuất. Toàn bộ đối tượng lao động trong giai đoạn (1), (2) được gọi là tài sản lưu động sản xuất.
Quá trình sản xuất của doanh nhiệp luôn luôn gắn với quá trình lưu thông, ở giai đoạn (3) doanh nhiệp phải tiến hành một số công việc như: chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán ... đối tượng lao động trong giai đoạn này được gọi là các tài sản lưu động lưu thông.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vân động thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy cũng có thể nói vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư mua sắm tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Phù hợp với đặc điểm trên của tài sản lưu động, vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ của sản xuất. Nói một cách khác vốn lưu động tham gia trực tiếp, toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó được thu hồi toàn bộ giá trị sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lập lại theo chu kỳ được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại thay đổi hình biểu hiện từ hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ đến vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ.
1.1.2. Vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trong cùng một lúc vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới những hình thái khác nhau. Muốn cho quá
trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào
các hình thái khác nhau đó.
Vốn lưu động tham gia toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó là bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm, dịch vụ. Do vậy chi phí về vốn lưu động là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm sản xuất hay dịch vụ hoàn thành. Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy việc quản lý vốn lưu động giúp doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất, đánh giá tác động và hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật đến sản xuất, phát hiện và tìm ra những tồn tại, yếu kém để có biện pháp loại trừ .
Bên cạnh đó vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn lưu động thể hiện sự vận động của vật tư. Vốn lưu động nhiều hay ít sẽ phản ánh vật tư hàng hoá nằm trên các khâu nhiều hay ít. Mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí. Do vậy thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động có thể đánh giá một cách kịp thời của việc mua sắm vật tư dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.3 Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng.
Từ các phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu vốn lưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Việc phân tích vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm để có biện pháp quản lý VLĐ hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Tất nhiên việc quản lý phải trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần VLĐ, thế nhưng việc tập trung các biện pháp vào quản lý những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết
định đến việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn lưu động. Mặt khác thông qua việc thay đổi kết cấu VLĐ của doanh nghiệp trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý VLĐ của từng doanh nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ của doanh nghiệp có nhiều loại, có
thể chia thành 3 nhóm chính:
- Các nhân tố về mặt dự trữ vật tư như: Khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức quá trình sản xuất.
- Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng hợp đồng bán hàng, thủ tục thanh toán, việc chấp hành kỷ luật thanh toán...
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong
doanh nghiệp .
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải luôn quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã bỏ ra, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và quan trọng hơn là duy trì và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt vốn lưu động sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý vốn lưu động không những đảm bảo sử dụng vốn lưu động hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng. Từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động không tốt, tức là để xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn lưu động sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mức vốn lưu động quá cao nghĩa là doanh nghiệp ứng ra một lượng vốn lớn mà quy mô sản xuất của doanh nghiệp không đòi hỏi như vậy, trong trường hợp này sẽ không khuyến khích doanh nghiệp khai thác các khả năng tiềm tàng, tìm mọi biện pháp cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Điều này gây nên tình trạng ứ đọng vật tư hàng hoá; vốn chậm luân chuyển và phát sinh các chi phí không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm. Trong điều kiện vốn lưu động phải do vay hoặc do phát hành trái phiếu ... thì một đồng vốn phải cộng thêm chi phí cho nó (lãi suất) chắc hẳn không có doanh nghiệp nào lại đi vay vốn khi thực sự chưa cần thiết và để cất nó trong kho.
Ngược lại nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động sẽ gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thiếu vốn sẽ không bảo đảm sản xuất được thường xuyên, liên tục, gây nên những thiệt hại do ngừng sản xuất, không có khả năng thanh toán và thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ đơn thuần do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu