Phân Tích Thực Trạng Chất Lượng Chăm Sóc Người Cao Tuổi


NCT. Trong 10 năm từ 2000 đến 2010, Chính phủ ban hành nhiều chính sách cụ thể và riêng cho NCT, đặc biệt Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia về NCT Việt Nam giai đoạn 2005-2010 với 3 mục tiêu, 6 chỉ tiêu và 10 nội dung hoạt động cụ thể (Quyết định số 301/2005/QĐ-TTg ngày 21/11/2005) và tổng hợp là Luật Người cao tuổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ VI thông qua ngày 23/11/2009, có hiệu lực ngày 1/7/2010. Các Bộ, ngành đã tiến hành rà soát ban hành bổ sung các chế độ, chính sách về chăm sóc và phát huy vai trò của NCT; ban hành văn bản hướng dẫn chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, tổ chức triển khai thực hiện. Các tỉnh/thành phố đã triển khai thực hiện các hoạt động của chương trình, chính sách cho NCT, quá trình triển khai thực hiện đã có sự tham gia phối hợp của các Sở, ban ngành, Mặt trận tổ quốc tỉnh, Ban công tác NCT và các tổ chức chính trị xã hội. Các mục tiêu, chỉ tiêu của công tác chăm sóc, phát huy vai trò NCT nói chung đã được các địa phương đưa vào Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiều tỉnh đã cụ thể bằng kế hoạch và ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cơ sở thực hiện, có kế hoạch và văn bản hướng dẫn thực hiện, bố trí kinh phí, phân công trách nhiệm thực hiện cho các ngành, tổ chức giám sát, đánh giá, tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện.

Nội dung chính sách về NCT hiện nay gồm:

(1) Chăm sóc sức khỏe;

(2) Chăm sóc đời sống vật chất;

(3) Chăm sóc tinh thần, động viên NCT tích cực tham gia các hoạt động, phong trào nhằm phát huy vai trò NCT.

Chính phủ bố trí ngân sách hàng năm để thực hiện chính sách chăm sóc NCT, gây Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò NCT, lồng ghép chính sách NCT trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quy định trách nhiệm từ phía gia đình, nhà nước, cộng đồng về công tác NCT.

Về chăm sóc đời sống vật chất: Để hỗ trợ gia đình trong việc chăm sóc NCT, Chính phủ đã ban hành các chính sách cụ thể cho NCT. Tuy nhiên, các chính


sách vẫn tập trung chủ yếu hỗ trợ kinh tế cho nhóm NCT đặc thù là người đã nghỉ hưu, NCT cô đơn không nơi nương tựa thông qua công tác an sinh và BHXH nhưng có độ phủ rộng hơn các giai đoạn trước. Cụ thể:

- NCT nghỉ hưu: Chính sách về mức lương hưu và trợ cấp theo BHXH;

- NCT cô đơn, không có nguồn thu nhập: Được trợ cấp xã hội với mức là

180.000 đồng/người/tháng với người từ 60-80 tuổi, 270.000 đồng/người/ tháng với người từ 80 tuổi trở lên (trước đây là 120.000đồng/tháng [19]);

- NCT 80+ không có lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác được hưởng trợ cấp xã hội là 180.000 đồng/người/tháng (trước đây quy định độ tuổi là 90 trở lên [21] và 85 trở lên [13]);

- NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng được hưởng mức trợ cấp xã hội là 360.000 đồng/ người/tháng [22].

- Những NCT từ 60 - 85 tuổi bị tàn tật, cô đơn đủ điều kiện để được hưởng chế độ [19];

Bên cạnh đó, Chính phủ có chương trình hỗ trợ nhà ở cho NCT được lồng ghép với chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và chương trình đền ơn đáp nghĩa. Chăm sóc gián tiếp NCT qua các chương trình giảm nghèo, các chương trình về việc làm, nước sạch vệ sinh môi trường, phát triển nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra, Chính phủ quy định NCT được giảm giá vé, giá dịch vụ khi sử dụng dịch vụ: ít nhất 15% giá vé, giá dịch vụ khi tham gia giao thông bằng tàu thủy, tàu hỏa, máy bay, giảm ít nhất 20% giá vé, giá dịch vụ thăm quan di tích văn hóa, lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh; tập luyện thể dục, thể thao tại các cơ sở thể dục thể thao có bán vé hoặc thu phí dịch vụ. Hỗ trợ chi phí mai táng khi NCT chết là 3 triệu đồng [16]. Chính phủ cũng quy định các ưu đãi đối với người cao như: Quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn; Được tạo điều kiện làm việc phù hợp với sức khoẻ, nghề nghiệp và các điều kiện khác để phát huy vai trò NCT; Được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện đóng góp; Được ưu tiên nhận tiền, hiện vật cứu trợ, chăm sóc sức khỏe


và chỗ ở nhằm khắc phục khó khăn ban đầu khi gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc rủi ro bất khả kháng khác.

Riêng với NCT cô đơn đặc biệt khó khăn không nơi nương tựa, Chính phủ trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc trong các cơ sở bảo trợ xã hội với mức trợ cấp xã hội là 360.000 đồng/người/tháng [22].

Về chăm sóc sức khỏe – y tế: NCT được ưu tiên trong KCB, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình [10]. Chính phủ và cộng đồng chăm sóc sức khỏe – y tế NCT qua bệnh viện, bệnh viện lão khoa và các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân... Để hỗ trợ gia đình trong chăm sócNCT, Chính phủ quy định về chăm sóc sức khỏe – y tế NCT trong hệ thống y tế nhà nước cụ thể như sau:

- Năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu, người lao động được rút ngắn thời gian làm việc hàng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn ngày, không trọn tuần [11];

- NCT từ 90 tuổi trở lên được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế với mệnh giá

50.000 đồng/người/năm [21] hoặc khám chữa bệnh miễn phí theo cơ chế thực thanh thực chi tại các cơ sở y tế [18]. Nhà nước cũng đồng thời ban hành chế độ bảo hiểm y tế với hai loại hình bắt buộc và tự nguyện để giải quyết một phần khó khăn cho bệnh nhân trong đó chủ yếu là NCT;

- Về chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại nơi cư trú: Trạm y tế xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý sức khỏe và thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT tại địa phương. Trường hợp NCT bị tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa bị ốm đau nhưng không đến khám, chữa bệnh tại nơi quy định thì trưởng trạm y tế cấp xã cử cán bộ y tế đến khám, chữa bệnh tại nơi ở của NCT hoặc báo cáo Ủy ban nhân dân địa phương tổ chức đưa người bệnh đến cơ sở khám, chữa bệnh [16].

- Về khám chữa bệnh: Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho NCT, người từ đủ 80 tuổi trở lên [16].

Bộ Y tế ban hành thông tư số 02/2004/TT-BYT năm 2004 và mới đây nhất là thông tư 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 hướng dẫn thực hiện công tác chăm


sóc sức khỏe NCT. Thông tư quy định rõ việc tổ chức quản lý sức khỏe và chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với NCT, tổ chức mạng lưới khám chữa bệnh cho NCT, trách nhiệm của Viện Lão khoa, các bệnh viên, Trung tâm y tế, Trạm y tế xã phường và các đơn vị tổ chức có liên quan vv... Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho thành lập Viện lão khoa, các cơ sở điều trị lão khoa, tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao...

Chăm sóc tinh thần, động viên NCT tích cực tham gia các hoạt động, phong trào nhằm phát huy vai trò NCT: Các chính sách ưu đãi về nâng cao đời sống tinh thần NCT gồm:

- Chúc thọ, mừng thọ NCT, trong đó Người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúc thọ và tặng quà; Người thọ 90 tuổi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chúc thọ và tặng quà [16];

- Được tham gia Hội NCT Việt Nam theo quy định của Điều lệ Hội [16].

Ngoài ra, Chính phủ quy định NCT được tạo điều kiện trên các mặt: NCT được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch và nghỉ ngơi, NCT được điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và phẩm chất tốt đẹp trong việc tham gia các hoạt động văn hoá - xã hội; NCT được động viên và tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động kinh tế như: Khôi phục nghề và truyền dạy nghề truyền thống, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm... theo điều kiện và khả năng cụ thể; NCT được tạo điều kiện để tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật nhất là những vấn đề liên quan đến NCT, tư vấn chuyên môn, kỹ thuật và nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học - công nghệ...; NCT được tạo điều kiện tham gia học tập suốt đời và truyền thụ những kiến thức văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ, gương mẫu đi đầu và làm nòng cốt trong phong trào xây dựng xã hội học tập; xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học.


Như vậy, hệ thống các chính sách về NCT của Việt Nam ngày càng được bổ sung và hoàn thiện sau 55 năm chuẩn bị và xây dựng (1945-1999). Đến năm 2000, Việt Nam đã có chính sách riêng dành cho NCT qua Pháp lệnh Người cao tuổi và Luật người cao tuổi (2009) mặc dù là được ban hành chậm hơn so với các nước như Thái Lan (2003), Trung Quốc (1996), Mông Cổ (1995), Philippin (1992). Từ năm 2000 việc ban hành các chính sách về chăm sóc và phát huy vai trò NCT được thực hiện thường xuyên phù hợp với xu thế ngày càng tăng lên về số lượng và tỷ lệ NCT trong tổng dân số. Tình hình thực hiện chính sách về NCT, nhất là sau khi Pháp lệnh Người cao tuổi (2000) ra đời đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã hội trong việc chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của NCT được đẩy mạnh hơn để NCT “sống vui, sống khoẻ” và NCT đang phát huy vai trò của mình trong công cuộc kiến thiết đất nước. Môi trường chính sách hiện nay đã tạo rất nhiều điều kiện để nâng cao chất lượng sống, đáp ứng nhu cầu chăm sóc cho NCT.

Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện công tác chăm sóc và phát huy vai trò NCT của các Bộ/ngành còn hạn chế như chưa đầy đủ và kịp thời, chưa thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số”.

Giai đoạn 2000-2005: Pháp lệnh về Người cao tuổi (số 23/2000/PL- UBTVQH10) Quốc hội thông qua, ban hành từ ngày 28/4/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, nhưng sau gần 4 năm, các thông tư của Bộ LĐ-TB-XH (Thông tư số 16/2002/TT-BLĐTBXH, ngày 20/01/2004) và của Bộ Y tế (Thông tư 02/2004/ TT-BYT) mới được ban hành, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành một số cơ quan như Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông Vận tải, Uỷ ban Thể dục - Thể thao...

Giai đoạn 2006-2010: Luật Người cao tuổi được Quốc hội thông qua, ban hành từ ngày 23/11/2009 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2010, nhưng sau gần 2 năm mới có Nghị định, Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi, hiện mới có Nghị định của Chính phủ (Nghị định 06/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Chính phủ hướng dẫn Luật người cao tuổi),


Thông tư của Bộ LĐ-TB-XH (Thông tư số 17/2011/TT-LĐTBXH ngày 19/5/2011 của Bộ LĐ-TB-XH quy định hồ sơ, thủ tục thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ chi phí mai táng và tiếp nhận NCT vào cơ sở bảo trợ xã hội), Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính (Thông tư số 21/2011/TT-BTC ngày 18/2/2011 Quy định quản lý và sử dụng kinh phí chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho NCT tại nơi cư trú; chúc thọ, mừng thọ và biểu dương khen thưởng NCT; Thông tư số 127/2011/TT- BTC ngày 9/9/2011 quy định mức thu phí thăm quan di tích văn hóa, lịch sử , bảo tàng, danh lam thắng cảnh đối với NCT), Thông tư của Bộ Y tế (Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ NCT), Thông tư của Bộ Giao thông vận tải (Thông tư 71/2011/TT- BGTVT ngày 30/12/2011). Cho đến nay, Bộ Nội vụ, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông … chưa có Thông tư hướng dẫn thi hành theo quy định của Luật người cao tuổi.

Có thể kết luận rằng hệ thống văn bản pháp luật về NCT ở Việt Nam mới tương đối đầy đủ, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới công tác chăm sóc NCT. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện công tác chăm sóc và phát huy vai trò NCT của các Bộ/ngành còn hạn chế như chưa đầy đủ và kịp thời, chưa thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số”. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn của các ngành có liên quan chưa kịp thời và chưa cụ thể, do vậy tuyến cơ sở còn gặp khó khăn trong triển khai thực hiện chính sách.

Việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đã làm cho việc triển khai ở địa phương bị động, lúng túng và Luật, Pháp lệnh chậm đi vào cuộc sống, đặc biệt là việc hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khoẻ NCT cũng như hướng dẫn tổ chức hoạt động của các cấp hội NCT. Theo báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về NCT của Ủy ban các vấn đề xã hội Quốc hội [49], các nguyên nhân chính theo các nhóm sau:

- Về nhận thức: Các cơ quan, tổ chức nhận thức chưa đầy đủ về về chủ trương, chính sách đối với NCT. Chưa coi việc thực hiện chính sách đối với NCT là nhiệm vụ và trách nhiêm của mình.


- Về phối hợp liên ngành: Trong chỉ đạo, phối hợp các hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò NCT, sự phối hợp liên ngành còn hạn chế và chưa thường xuyên ở các cấp.

- Về kinh phí hỗ trợ: Kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc NCT chưa được đáp ứng đủ. Các định mức chi chưa thay đổi kịp thời với tình hình thưc tế. Việc quản lý ngân sách nhà nước giao địa phương để thực hiện các hoạt động chăm sóc NCT còn lỏng lẻo, do đó dẫn tới việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nguồn kinh phí này.

- Về nguồn nhận lực: Đa số Bộ, ngành chưa có cán bộ chuyên trách, có chuyên môn nghiệp cụ chuyên sâu theo dõi công tác NCT.

- Về theo dõi, giám sát và đánh giá: Công tác thanh tra kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên. Công tác sơ kết, tổng kết hoạt động chưa được thực hiện thường xuyên.


2.2.2. Phân tích thực trạng chất lượng chăm sóc người cao tuổi

2.2.2.1. Phân tích thực trạng chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi

Chăm sóc sức khỏe NCT bao gồm tổng thể các hoạt động từ tự rèn luyện và chăm sóc của chính NCT và con cháu chăm sóc sức khỏe cho NCT tại gia đình đến chăm sóc y tế khi NCT mắc bệnh để NCT khỏe mạnh, ít bệnh tật. Việc chăm sóc sức khỏe là không chỉ là tránh nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội mà còn là trách nhiệm của chính NCT.

Chính phủ chăm sóc sức khỏe – y tế cho NCT qua hệ thống chính sách, qua bệnh viện lão khoa, bệnh viện và các cơ sở y tế nhà nước và hỗ trợ chi phí KCB cho NCT/gia đình NCT qua BHYT, ngoài ra còn tư vấn chăm sóc sức khỏe cho NCT qua các kênh truyền thông gián tiếp và trực tiếp như: truyền hình, đài phát thanh, hệ thống y tế cơ sở, các mô hình tư vấn và chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng... Cộng đồng và xã hội chăm sóc sức khỏe – y tế NCT qua hệ thống bệnh viện, phòng khám tư và mô hình bác sỹ gia đình nhưng NCT/gia đình phải trả phí.


Bảng 2.2. Các hình thức chăm sóc sức khỏe người cao tuổi

Nguồn lực Nội dung

Chăm sóc chính thức

Chăm sóc không

chính thức

Khu vực Nhà nước

Khu vực tư nhân

NCT/Gia đình/Người thân

lợi nhuận

Không vì lợi nhuận


Chăm sóc sức khỏe NCT

- Chính sách

- Cung cấp thông tin/ Tư vấn SK

- BV/BV lão khoa/Cơ sở y tế NN/BHYT

- BV tư nhân

- Mô hình BS gia đình

- Trung tâm CS NCT tư

nhân do quản lý

- Mô hình CSSK NCT

khó khăn dựa vào TNV

- NCT tự rèn luyện cà khám bệnh định kỳ

- Chăm sóc dài hạn tại gia đình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi Việt Nam - 11

Nguồn: Nghiên cứu của tác giả

Sức khỏe/ bệnh tật của người cao tuổi

Tình trạng sức khỏe của NCT: Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam, với những thành tựu trong kinh tế, y tế, giáo dục... con người có dinh dưỡng đầy đủ hơn, có ý thức giữ gìn vệ sinh và được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn nên tuổi thọ cao hơn. Nhưng tỷ lệ và số lượng NCT thuộc loại sức khỏe yếu còn rất lớn và có chiều hướng tăng trong hơn 10 năm trở lại đây.



70

66.12

70



60



52.71

56.3

50

40

30


30.15


25


41.97

36.3

20

10


3.71


5


5.32


7.6

0





1989*

1998*

2007**

2011***

Tốt

3.71

5

5.32

7.6

Trung bình

66.12

70

52.71

36.3

Kém

30.15

25

41.97

56.3


Biểu đồ 2.4. Phân loại sức khoẻ của người cao tuổi qua các cuộc điều tra (%), 1989-2011

Nguồn: Tác giả xây dựng biểu đồ theo số liệu: (*) GS. Đỗ Nguyên Phương, Tình trạng sức khoẻ hiện nay của NCT Việt Nam 1999; (**) Bộ LĐ-TB-XH (2007), Kết quả khảo sát thu thập, xử lý thông tin về NCT ở Việt Nam; (***)VNAS, Kết quả điều tra quốc gia về NCT Việt Nam 2011.

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 13/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí