Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - 2


Wang Yalin một học giả của Trung Quốc cho rằng: Công cuộc hiện đại hoá xây dựng Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc hiện nay đang phải thực hiện “sự vượt qua kép” tức là phải thực hiện:

Thứ nhất, cả công nghiệp hoá và cả hậu công nghiệp hoá.

Thứ hai, cả về phát triển kinh tế và phát triển nhân văn.

Phát triển kinh tế và nhân văn xã hội là những bộ phận quan trọng của sự phát triển toàn bộ xã hội dựa vào nhau và thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. ông cho rằng phát triển nhân văn xã hội một mặt được sự hỗ trợ của phát triển kinh tế, mặt khác lại thực hiện một số chức năng đối với phát triển kinh tế như sáng tạo ra môi trường tốt đẹp cho phát triển kinh tế trở thành hệ thống đảm bảo cho sự phát triển. Và phát triển nhân văn xã hội lấy con người làm hạt nhân cung cấp hệ thống định hướng giá trị cho phát triển kinh tế.

Như vậy rõ ràng là những nhân tố nhân văn xã hội, hay nói cách khác những nhân tố văn hoá không thể thiếu vắng trong động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tiến bộ văn hoá.

Theo khẳng định của UNESCO: “Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá, thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá, và tiềm năng sáng tạo của những ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều” [60, tr.5].

Văn hoá ngày nay đang trở thành một nhân tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế. Trong bất kỳ thời kỳ nào, quốc gia nào, con người nào cũng đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất. Mà con người trước hết là một thực thể văn hoá. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa học kỹ thuật, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn, nhân bản…) cao thấp có ý nghĩa quyết định sức mạnh của văn hoá. Sự phát triển của mỗi quốc gia không phải chỉ ở tài nguyên thiên nhiên giàu có, đa dạng mà quyết định là ở sự sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người, ở trong hàm lượng và sự phân bố tài nguyên tri thức trong cơ cấu sản xuất…

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng văn hoá, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Các văn kiện Hội nghị Trung ương khoá VII, VIII, IX của Đảng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Yếu tố nền tảng của văn hoá ở đây là sự hiểu biết, là tri thức, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích luỹ được trong quá trình học tập, lao động, đấu tranh để duy trì và phát triển cuộc sống con người. Muốn đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải có sự hiểu biết về tri thức, kinh nghiệm, khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại, đồng thời phải biết phát huy các giá trị của truyền thống văn hoá. Nhân tố nền tảng này nếu được khai thác và biết cách phát huy thì sẽ trở thành một động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế.

Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - 2

Kinh nghiệm cho thấy, so với nước Mỹ thì Nhật Bản còn có một số kỹ thuật nhập khẩu từ Mỹ, nhưng con đường để cho các xí nghiệp của Nhật Bản vượt các xí nghiệp Mỹ về tăng năng suất lao động lại chính là việc sử dụng các yếu tố truyền thống trong đó phải kể đến tinh thần gia tộc và tinh thần quần thể của người Nhật. Người Nhật đã biết phát huy những đặc điểm ưu việt của nền văn hoá truyền thống thông qua một hệ thống giáo dục và hoạt động văn hoá có sự đầu tư thích đáng về vật chất và tinh thần. Họ đã không để cho làn sóng hiện đại hoá và giao lưu văn hoá ồ ạt của thời kỳ mới lấn át các cơ sở văn hoá truyền thống được cố kết hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc như tinh thần kỷ cương trong lao động, tôn ti trật tự cần thiết trong sự điều hành xã hội, mối liên hệ gia đình, làng xóm, dân tộc có tác dụng đối với lao động, đức tín nghĩa…

Bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa tốt đẹp của văn hoá nhân loại Đảng ta đã cho rằng bản sắc văn hoá dân tộc là trụ cột của sức mạnh văn hoá. Truyền thống văn hoá cùng với tinh thần dân tộc là nguồn tài nguyên của dân tộc và đất nước. Trong lịch sử hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm của dân tộc ta, nguồn lực quan trọng nhất trong truyền thống văn hoá là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Từ khi ra đời Đảng ta đã động viên, phát huy cao độ tinh thần yêu nước để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đảng ta luôn nhấn mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc phải đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa của văn hoá nhân loại, nhấn mạnh tính dân tộc đồng thời với tính khoa học và đại chúng, tính tiên


tiến gắn với bản sắc dân tộc đậm đà. Đó chính là bản lĩnh, bản sắc văn hoá Việt Nam, sức mạnh của văn hoá Việt Nam là nền tảng, động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã xác định nhiệm vụ: “Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Phong trào này đã nhanh chóng được triển khai sâu rộng và sáng tạo, góp phần làm cho đời sống chính trị ổn định, kinh tế phát triển, giảm bớt các hộ đói nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, phát huy được tình làng nghĩa xóm, làm đẹp cảnh quan môi trường, làm cho đời sống văn hoá tinh thần ngày càng phong phú hơn.

Hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng toàn cầu hoá là cơ hội để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song chúng ta cũng đối mặt với các thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống dân tộc. Logíc tồn tại của nền văn hoá dân tộc hiện nay đang diễn ra trong hai quá trình: quá trình đẩy nhanh sự hợp tác trao đổi và quá trình gia tăng bản sắc của dân tộc. Hai quá trình này thống nhất biện chứng trong quá trình toàn cầu hoá. Chúng ta nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc nhưng mở cửa để hội nhập và phát triển, mở cửa phải giữ vững nền độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ được cơ cấu và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc.

Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và trong xu thế toàn cầu hoá, các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vất chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn, tiện nghi thuận lợi hơn song nó có khả năng thúc đẩy lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hoá nhân cách, làm rối loạn những giá trị xã hội, nó phá vỡ sự cân bằng của môi trường truyền thống, nó thương mại hoá không ít các hoạt động văn hoá và quan hệ xã hội. Hệ giá trị làng xã Việt Nam với một cơ cấu cộng đồng bền chặt đang phải thử thách trước làn sóng đầu tư trong quá trình toàn cầu hoá. Các mối quan hệ trong gia đình, làng xóm có phần lỏng lẻo dần. Khát vọng làm giàu của các thế hệ đặc biệt là thanh niên đang gia tăng trước thời cơ và vận hội này với không ít lệch lạc làm thay đổi cơ cấu giá trị của nền kinh tế cũ để chuyển sang nền kinh tế thị trường.


Việt Nam đã tham gia hội nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á (aSEAN), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm liên kết các giá trị khu vực và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá gia tăng mạnh mẽ. Chúng ta cũng bước đầu xây dựng một chiến lược giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong chiến lược này, văn hoá được coi là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Để Việt Nam phát triển được trong quá trình toàn cầu hoá, trước hết phải quan tâm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá đó xác lập hệ giá trị cơ bản là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh làm định hướng và thước đo giá trị.

Các giá trị văn hoá là nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thay đổi nếp nghĩ, cách làm, kích thích sáng tạo, năng động trong nền kinh tế thị trường nhưng bên cạnh đó những phản giá trị như chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu thụ … xuất hiện đã làm thay đổi bản chất nhân cách của con người và các quan hệ xã hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân, tính vị kỷ…Hơn lúc nào hết, ngày nay văn hoá phải góp phần bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá đích thực để thúc đẩy và hướng dẫn sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người trước những thách thức của toàn cầu hoá và kinh tế thị trường.

Nếu chúng ta cho rằng văn hoá là hệ thống các giá trị, các truyền thống, các thị hiếu và lối sống được các cộng đồng sáng tạo nên qua lịch sử phát triển hàng thế kỷ, dựa vào đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình, thì rõ ràng văn hoá không đứng ngoài mà nằm ở trong, là nhân tố nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hoá với vai trò của mình làm nền tảng và định hướng cho cái đúng, cái hay, cái đẹp trong tư duy của nhà chiến lược, trong suy nghĩ của nhà hoạch định chính sách, trong hành vi ứng xử của doanh nhân, trong ngoại giao và trong hoạt động du lịch

Từ Đại hội VI (1986) đến nay nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng kinh tế đối ngoại, bước vào ngưỡng cửa của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn thực hiện được tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi


mới, điều quan trọng trước tiên là phải phát huy nguồn lực văn hoá, nâng cao trình độ văn hoá của toàn dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những quan điểm cơ bản chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa:

- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Nền văn hoá mà chúng ta cần xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.

- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng của một quốc gia dân tộc thống nhất; tổng hoà các tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em cùng chung sống trên mảnh đất Việt Nam.

- Văn hoá là một mặt trận, người làm văn hoá là chiến sỹ trên mặt trận ấy.

- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự nghiệp sáng tạo của toàn dân do Đảng lãnh đạo, đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân là lực lượng quan trọng.

- Có chính sách đầu tư thích đáng cho văn hoá, văn nghệ, khoa học, giáo dục…, coi đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho phát triển. Phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và các cá nhân bảo đảm định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước, đồng thời bảo đảm quyền tự do sáng tạo của các nhà hoạt động văn hoá…

Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoá IX của Đảng đã khẳng định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần xã hội… bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” [33, tr.4].

1.2. Quan niệm về du lịch

1.2.1. Khái niệm du lịch

Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Mặc dù


vậy cho đến nay không chỉ ở nước ta nhận thức về nội dung khái niệm du lịch vẫn chưa có sự thống nhất.

Với những cách tiếp cận khác nhau, các học giả đã đưa ra những khái niệm khác nhau về du lịch: Theo từ nguyên, trong tiếng Anh “to tour" có nghĩa là dã ngoại; trong tiếng Pháp “tour“ có nghĩa là đi dạo chơi, leo núi, vận động ngoài trời; trong tiếng Việt, du lịch là một từ đã có từ lâu gắn liền với các chuyến đi: Kinh lý, tham quan, vãn cảnh, thăm viếng… của các nho sỹ, các tầng lớp vua chúa, quan lại, các nhà truyền giáo…

Trong Từ điển tiếng Việt, du lịch được giải thích là “đi chơi cho biết xứ người"

[71].

- Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Du lịch là sự mở rộng không gian văn

hoá của con người” [72].

Kuns, học giả người Thụy Sĩ xác nhận: “Du lịch là hiện tượng những người chỗ khác đi đến nơi không phải thường xuyên cư trú của họ bằng phương tiện vận tải và dùng các dịch vụ du lịch” [52, tr.29].

Hai học giả Hoa Kỳ là Mathieson và Wall gắn kết cả cách nhìn nhận về du lịch từ phía người đi du lịch và người kinh doanh du lịch. Các ông viết: “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để đáp ứng những nhu cầu của họ” [61, tr.11].

Năm 1963 với mục đích quốc tế hoá khái niệm du lịch, tại hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” [61, tr.12].

Xuất phát từ hiện tượng du lịch, nhà nghiên cứu Trần Nhạn đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện về bản chất đích thực, cơ bản của du lịch: “Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận


những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền” [52, tr.30].

Như vậy các định nghĩa về du lịch nói trên đã tiếp cận khái niệm du lịch theo nghĩa rộng hơn, không chỉ đề cập du lịch đối với khách du lịch vãng lai mà còn thêm vào đó các hoạt động kinh doanh của các cơ sở và cá nhân phục vụ cho các nhu cầu của khách du lịch đi qua và ở lại (như việc vận chuyển, phục vụ ăn uống, nghỉ ngơi, hướng dẫn tham quan, giải trí…) và các giá trị văn hoá tinh thần thu nhận được trong quá trình du lịch. Khái niệm du lịch trong Luật Du lịch của Việt Nam cũng xuất phát từ cái nhìn toàn diện này:

“Du lịch là các hoạt dộng có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [42, tr.9].

1.2.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Du lịch đã khẳng định được vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước như một ngành “công nghiệp không khói ”.

Trong những năm gần đây, hoạt động du lịch đang trở nên phổ biến trên toàn cầu và phát triển với tốc độ nhanh. Theo số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới thì năm 1950 toàn thế giới có 25 triệu du khách, đến năm 1990 con số này đã lên tới 450 triệu (tăng 18 lần sau 20 năm). Tính riêng trong vòng mười năm gần đây số khách du lịch quốc tế đã tăng từ 339 triệu năm 1986 lên 592 triệu năm 1996 và đến năm 2000 con số này đạt tới 637 triệu và khoảng 937 triệu vào năm 2010.

Theo tính toán của các chuyên gia du lịch quốc tế, chỉ trong vòng 36 năm (từ 1960 - 1996) thu nhập từ du lịch của thế giới đã tăng 62 lần (từ 6,8 tỷ USD năm 1960 tăng lên 423 tỷ USD năm 1996), riêng năm 1995 ngành du lịch toàn cầu đã tạo việc làm cho 212 triệu người và dự tính đến năm 2005 con số này sẽ lên tới 338 triệu trên phạm vi toàn thế giới.

Nhiều tài liệu nghiên cứu cũng đã chỉ rõ: Du lịch là ngành lớn nhất thế giới, tính theo sản phẩm thu được, là ngành đứng đầu về thu thuế, là ngành có khả năng nhất


trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động. Từ 1990-1993, số người làm việc trong ngành du lịch tăng nhanh hơn 50% so với tốc độ tăng công ăn việc làm trên thế giới. Hội đồng Du lịch và Kinh doanh du lịch thế giới ước tính: Du lịch và kinh doanh du lịch tạo ra cho 144 triệu việc làm trên thế giới từ 2000 đến 2005, trong đó 112 triệu là ở các nước đang phát triển thuộc khu vực châu á - Thái Bình Dương. Họ đã tính số tiền khách du lịch chi trả cho các chuyến du lịch sẽ tăng từ 450 tỷ USD năm 1998 lên 555 tỷ USD năm 2000 và 1500 tỷ USD vào năm 2010. Như vậy sau 20 năm nữa du lịch rất có thể sẽ trở thành ngành kinh tế phát triển mạnh hàng đầu thế giới [75]

Với đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, từ năm 1986 đến nay, ngành Du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Chương trình hành động quốc gia về du lịch với tiêu đề: “Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã mạng lại cho Du lịch Việt Nam những kết quả quan trọng, góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội, thay đổi diện mạo và khẳng định tầm vóc của du lịch nước ta, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực. Qua chương trình này có 42 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban chỉ đạo Phát triển du lịch, 14 Bộ, Ngành có chương trình, kế hoạch phối hợp triển khai chương trình. Đây là tiền đề quan trọng huy động nguồn sức mạnh tổng hợp cho phát triển du lịch.

Ngành Du lịch thời gian qua đã tổ chức hàng loạt các lễ hội và liên hoan văn hoá

- du lịch lớn trong cả nước, thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài nước: Festival Huế tổ chức hai năm một lần, Đêm rằm phố cổ Hội An, Liên hoan du lịch đất Phương Nam, Lễ hội văn hoá - du lịch 100 năm Đà Lạt, 110 năm Sapa, Năm du lịch Hạ Long, Năm du lịch Điện Biên Phủ và hàng chục các lễ hội truyền thống được khôi phục và nâng cấp phục vụ mục đích du lịch. Hàng chục vạn ấn phẩm quảng bá du lịch bằng nhiều thứ tiếng đã được phát hành. Hình ảnh cô gái Việt Nam và tiêu đề “Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới” đã tạo nên sự quen thuộc, gần gũi đối với mọi người trên thế giới. Nhờ những hoạt động du lịch văn hoá nói trên chúng ta đã thu hút được lượng khách quốc tế khá đông đảo mặc dầu phải đương đầu với không ít khó khăn thách thức do khách quan đưa lại. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, lượng khách

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 19/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí