số nợ gốc và số nợ cứ thế mà tăng dần. Tuy thời điểm tính lại ban đầu như được thông báo là sau năm năm, nhưng thực sự thì khi số tiền vay vượt quá một mức hạn định ví dụ mức 110% của số nợ gốc ban đầu thì ngân hàng sẽ tính lại ngay lập tức.
Với giá nhà liên tục gia tăng và lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã sẵn sàng cho vay không cần tiền đặt cọc, cũng không đòi hỏi người đi vay phải chứng tỏ rõ ràng về khả năng trả nợ, và lại không hề quan tâm đến điểm tín dụng. Với cách cho vay quá dễ dàng này thì những người trước đây bị ngân hàng đánh giá là không đạt tiêu chuẩn, bây giờ có thể vay trả góp một cách thoải mái. Điều đó dẫn đến một lượng lớn những khách hàng chưa hề có lý lịch vay mượn, hoặc có lý lịch yếu vì đã từng chậm trả nợ, hoặc không đủ khả năng trả góp hàng tháng cho đến những người đã bị phá sản cũng nghiễm nhiên trở thành chủ nhân những ngôi nhà to lớn, khang trang. Tất cả những món nợ cho các khách hàng này đều được xếp vào nợ dưới chuẩn.
Vậy chúng ta có thể hiểu nợ dưới chuẩn là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn.
Chính vì vậy, đứng về phía các công ty tài trợ địa ốc hay các ngân hàng, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song lại có mức lãi suất cho vay cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng. Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các khoản nợ dưới chuẩn
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007.
Sỡ dĩ việc cho vay nợ dưới chuẩn lại có thể gia tăng với tốc độ chóng mặt và khó kiểm soát đến như vậy đó là có sự gặp nhau gần như đến tuyệt đối giữa cung và cầu vay nợ dưới chuẩn. Các ngân hàng đầu tư, các định chế tài chính và các kênh tài trợ khác càng mở rộng việc cho vay bao nhiêu thì người đi vay cũng sẵn sàng vay bấy nhiêu. Phần lớn nhiều người đi vay đã chọn Option ARM và các nhà tài trợ cũng mạnh dạn cho vay cũng vì tất cả đều nghĩ rằng giá nhà cửa sẽ tiếp tục gia tăng và khi phải tính lại thì món nợ ấy có thể tái tài trợ dễ dàng.
Cơn sốt “dot.com” đã giúp nhiều người nhanh chóng trở nên giàu có. Với một lượng lớn tiền bạc và của cải dư thừa họ đổ vào địa ốc khiến nhà cửa quanh những vùng công nghiệp cao như thung lũng Silicon tăng giá một cách nhanh chóng và làn sóng tăng giá dần dần lan rộng khắp nước Mỹ. Khi cái bong bóng công nghệ thông tin tan vỡ, nhiều công ty đóng cửa, số người mất việc gia tăng và sức mua suy giảm. Để tránh viễn cảnh kinh tế suy thoái, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục hạ lãi suất. Với tâm lý thấy nhà cửa trước đó
lên giá nhanh chóng mà lãi suất hiện tại lại hạ thấp, nhiều người đã đầu tư vào thị trường địa ốc. Số người mua nhà gia tăng, cầu vượt cung nên giá nhà tiếp tục gia tăng. Theo số liệu của Bloomberg, trong vòng 10 năm qua giá nhà ở Mỹ đã tăng liên tục khoảng 20% mỗi năm và ở một số nơi thì đã tăng gấp ba lần.
Trong bối cảnh đó, hầu hết mọi người đã đi vay mua nhà không cân nhắc vì họ đều nghĩ rằng chỉ cần chịu đựng trong vài năm đầu vì đã có Option ARM, rồi sau đó khi nhà cửa lên giá thì sẽ tái tài trợ, hoặc một giải pháp khác là họ có thể bán cái nhà ấy để thu lại một khoản lợi nhuận lớn từ chênh lệch giá. Vì quá kỳ vọng về một viễn cảnh tốt đẹp nhiều người đi vay đã không hề để ý đến điểm yếu của chiến thuật này đó là trong trường hợp nhà cửa sụt giá thì người vay không thể tái tài trợ được cho khoản vay của mình. Ngân hàng sẽ tịch biên ngôi nhà mang ra bán đấu giá rồi đưa người đi vay ra tòa để đòi lại khoản tiền thiếu nợ. Không trả được thì người đi vay sẽ phải khai phá sản và ngân hàng chịu mất tiền. Đó chính là điều đã xảy ra trên thị trường địa ốc Mỹ.
Có thể bạn quan tâm!
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 1
- Chính Sách Mở Rộng Cạnh Tranh Của Chính Phủ Mỹ Đã Phá Bỏ Các Rào Kiểm Soát Cần Thiết Của Thị Trường Tài Chính
- Diễn Biến Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Tại Châu Âu Và Các Nước Khác
- Ảnh Hưởng Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Toàn Cầu Đến Nền Kinh Tế Việt Nam
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Việc nhà cửa ở Mỹ gia tăng giá thực ra còn là kết quả của nhiều yếu tố khác trước đó. Một lý do là vì đã có thêm nhiều nguồn tài trợ địa ốc. Trước đây thì nguồn vốn cho vay địa ốc hầu như đều do ngân hàng cung cấp. Tuy nhiên lượng tiền cho vay từ ngân hàng cũng có giới hạn. Ngoài những ràng buộc gắt gao về luật lệ hoạt động ngân hàng, lượng tiền cho vay của mỗi ngân hàng lệ thuộc phần lớn vào số tiền ký gửi của khách hàng, và để quản lý rủi ro thì chỉ một phần của tổng số tiền cho vay được dành cho địa ốc. Số người đủ tiêu chuẩn để có thể vay tiền ngân hàng vì thế không nhiều và muốn giúp dân chúng có nhà thì Chính phủ Mỹ phải tìm cách tạo thêm các nguồn tài trợ khác.
Năm 1980, Đạo luật Giao dịch Thế chấp Tương đương (Alternative Mortgage Transaction Parity Act) được ban hành, nới rộng những quy luật
cho vay và khuyến khích việc thành lập những kênh tài trợ khác. Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một mầm mống dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2007. Ngay sau khi được ban hành đạo luật này đã thổi một luồng gió mới vào thị trường địa ốc. Nhiều công ty tài trợ địa ốc (mortgage lenders) ra đời và vì không bị ràng buộc bởi những luật lệ ngân hàng nên các nhà tài trợ mới này ngày càng nhanh chóng mở rộng hoạt động của mình. Nhiều ngân hàng lớn thay vì tiếp tục con đường hoạt động truyền thống của mình là lấy tiền ký thác để cho vay thì lại không muốn đứng ngoài cuộc nên cũng đã thành lập, hoặc liên kết với những công ty tài trợ địa ốc và số kênh cho vay trả góp nhà đã tăng lên một cách nhanh chóng.
1.1.3. Sự khuếch đại tín dụng từ việc chứng khoán hóa các khoản nợ bất động sản dưới chuẩn
Trước đây ngân hàng phải dùng vốn của mình để cho vay. Món nợ cho vay địa ốc sẽ nằm trong bảng kết toán của ngân hàng và như vậy thì trong suốt thời gian cho vay, ngân hàng sẽ bị “kẹt vốn”. Để giúp ngân hàng có tiền cho vay tiếp, Chính phủ Mỹ cho thành lập một số “Công ty do nhà nước bảo trợ” (Government Sponsored Enterprise) mà hai tổ chức lớn nhất là Hiệp hội Quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Association - gọi tắt là Fannie Mae), và Công ty Quốc Gia tài trợ địa ốc (Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp hay có thể gọi là “trái phiếu bất động sản” (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Tương tự như vậy, các công ty tài trợ địa ốc cũng bán các món nợ này cho các ngân hàng đầu tư để họ phát hành những trái phiếu bất động sản và
bán lại cho các nhà đầu tư khác. Với cách thức này những món nợ địa ốc từ nay không còn kẹt trong sổ kế toán của các ngân hàng và các công ty tài trợ địa ốc nữa mà lại được liên tục luân chuyển và thay thế bằng những đồng vốn mới từ tiền bán những trái phiếu trên thị trường tiền tệ. Các tổ chức giám định hệ số tín nhiệm (Credit rating agencies) đánh giá cao loại sản phẩm phái sinh này. Và nó được các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí trên toàn thế giới mua mà không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để đảm bảo là không đủ tiêu chuẩn. Theo ước tính của nhiều chuyên gia, trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng 4.000 tỷ USD là nợ xấu. Các nước khác đặc biệt là các quốc gia châu Âu cũng bắt chước Hoa Kỳ phát hành và bán ra loại trái phiếu phái sinh MBS này trên thị trường tài chính của họ.
Vậy bản chất của trái phiếu bất động sản là gì? Đó chính là kết quả của một công cụ tài chính hiện đại khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation). Và cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn cũng được thực hiện thông qua công cụ đó. Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90. Để hiểu rõ hơn em xin đi sâu vào vấn đề về sự hình thành và mua bán MBS. Tuy công cụ đầu tư phát sinh này rất phức tạp và đa dạng nhưng có thể đề cập đến một thể loại đơn giản nhất như sau. Fannie Mae, hoặc là một công ty tài chính khác như Lehman Brothers, bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các ngân hàng thương mại, tập trung chúng thành từng loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư.
Ví dụ, Fannie Mae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau với giá gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các khoản vay này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie Mae có thể biến khoản này thành 100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư A mua 10 MBS thì sẽ trả 20.000 USD.
Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến hằng tháng từ những người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung gian) trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Cuối cùng, nếu không có gì trục trặc thì sau khi hết khoảng thời gian nhận lại tiền, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư nhận được sẽ là trên 20.000 USD (tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng năm). Các MBS dựa trên các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ đem lại lời nhiều hơn cho các nhà đầu tư.
Một nhân tố phát sinh nhưng lại là nguyên nhân chính làm cho cuộc khủng hoảng toàn cầu càng thêm trầm trọng là những "hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi" (Credit Default Swap - CDS). Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra, theo đó bên mua CDS (các nhà đầu tư) được bên bán CDS (các công ty bảo hiểm) bảo đảm sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền cho vay nếu người đi vay không trả được nợ. Hay cụ thể hơn thì mục đích của nó là bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường. Sự việc này đã kéo theo một loạt các định chế tài chính khác tham gia vào việc bán bảo hiểm CDS. Bởi vì bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất động sản đang đi lên và ít người vỡ nợ thì lợi nhuận thu về sẽ rất cao.
Theo ước tính của Hiệp hội SWAP và chứng khoán phái sinh quốc tế (International Swap and Derivatives Association) thì ở tại thị trường Mỹ tổng số CDS ước tính vào khoảng 35 nghìn tỷ USD, và trên toàn thế giới là khoảng 62 nghìn tỷ USD. Tổng giá trị của tất cả các loại chứng khoán phái sinh là khoảng 516 nghìn tỷ USD. So sánh với GDP toàn cầu năm 2008 chỉ khoảng 60 nghìn tỷ USD đủ cho chúng ta thấy được giá trị của các loại chứng khoán phái sinh so với lượng tiền của nền kinh tế kinh tế thực là lớn hơn rất nhiều lần. Vì quá đam mê lợi nhuận các chuyên gia của nền tài chính Mỹ đã tạo ra
một lượng tiền phái sinh khổng lồ đầy rủi ro trên toàn thế giới bởi vì tài sản gốc ở đây chính là các khoản vay nợ dưới chuẩn. Và điều tồi tệ đã xảy ra trên thị trường tài chính Mỹ đó là việc giá của các khoản nợ giảm đột ngột dẫn đến các loại chứng khoán phái sinh gần như mất hẳn khả năng thanh khoản.
Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ sẽ phải chấp nhận những rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển rủi ro đó sang cho người khác một cách dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư tự tin đầu tư vốn vào hoạt động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng.
Sau đây sẽ là các bước chi tiết của một quá trình chứng khoán hóa: Trước tiên, ngân hàng đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện cho vay mua nhà thông qua mạng lưới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân. Các công ty tài chính sẽ gom các khoản cho vay lại thành một danh mục tín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại cho ngân hàng đầu tư mà thực chất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung ứng trước đó cho công ty tài chính.
Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán sang cho một công ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng đầu tư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư. Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sản là danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các hoạt động như theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được thuê ngoài cho công ty dịch vụ (thường chính là công ty tài chính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý tưởng, khi các danh mục cho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái phiếu cho nhà đầu tư thì công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể.
Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danh mục cho vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z. Gói A với hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên. Sau khi thanh toán hết gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là gói Z. Gói Z là gói đặc biệt không được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược lại.
Như vậy các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn. Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn vốn hữu hạn của mình từ tiền gửi của khách