- Tăng số lượng cán bộ làm công tác quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ đối với các vấn đề giám sát tài chính, phân tích chính sách, xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm.
Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm quốc tế. Nhà nước giánm sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Kiện toàn hệ thống thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Cần phải xác định rò phạm vi trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức; sự phối kết hợp giữa các cơ quan tổ chức này; quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan và quy trình xử lý công việc, làm việc một cách minh bạch, rò ràng.
Trong điều kiện Việt Nam đã cơ bản hoàn thành quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã và đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc dân, vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trên một số khía cạnh sau:
- Làm cầu nối giữa tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm và các cơ quan quản lý Nhà nước.
- Nâng cao đạo đức của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Để thực thi được vấn đề này, Hiệp hội bảo hiểm cần nhanh chóng chủ trì xây dựng các Bộ quy tắc ứng xử trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm;
- Cùng với các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm thiết lập tổ chức, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa khách hàng và các tổ chức cung cấp dịch vụ
bảo hiểm. Mục tiêu nhằm giảm chi phí cho cả khách hàng và tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm; tiết kiệm chi phí cho xây dựng thông qua việc giảm thời gian giải quyết các tranh chấp trên tinh thần tự nguyện; tăng lòng tin của khách hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Rào Cản Đối Với Dnnqd Trong Việc Tiếp Cận, Sử Dụng Các Dịch Vụ Tài Chính
- Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - 15
- Giải Pháp Về Phía Môi Trường Pháp Lý
- Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - 18
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế về việc cho phép thành lập mới các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cần có sự kiểm soát và khuyến khích theo hướng ưu tiên của Chính phủ như đã trình bày ở các giải pháp trước. Trong đó cần chú trọng đến các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm thuộc các nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các tổ chức có năng lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm và có đóng góp và sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Việc cấp giấy phép thành lập mới phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Cho phép các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất đối với việc kiểm soát và quản lý các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là xây dựng hệ thống tiêu chí thích hợp phục vụ cho thực hiện cam kết về đưang ký thành lập doanh nghiệp bảo hiểm theo các hiện định đã ký kết. Đồng thời, cần quản lý chặt chẽ tình hình tài chính cũng như vấn đề cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa.
Đối với dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu ban hành những quy định về quản lý ngoại hối, liên quan đến quy định chuyển tiền ra/vào của người đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán. Mục tiêu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tham
gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở kích thích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ chứng khoán khi đặt mục tiêu huy động vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Nghiên cứu để chuẩn bị đưa vào áp dụng loại hình bảo hiểm đầu tư chứng khoán cho các bên tham gia thị trường như: nhà đầu tư, các công ty chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán và các bên liên quan khác. Thông qua biện pháp này sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro cho hoạt động kinh doanh dịch vụ chứng khoán, tạo tâm lý tin tưởng cho cả tổ chức cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ chứng khoán.
Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong hoạt động quản lý thị trường chứng khoán dưới mọi hình thức có thể. Một số lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ cần tập trung giải quyết bao gồm: thanh tra, kiểm tra các hoạt động của thị trường, các công ty niêm yết và các chủ thể tham gia vào thị trường…
Hoàn thiện chế độ công khai thông tin chung trong toàn bộ nền kinh tế, mục tiêu cơ bản là đưa công khai thông tin trở thành một “văn hoá” trong hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Thu hẹp khoảng cách công khai thông tin giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán và doanh nghiệp chưa tham gia TTCK. Một trong những báo cáo công khai thông tin có thể được xem là nền tảng cơ bản trong vấn đề công khai thông tin là xuất bản Báo cáo thường niên phải được xem là “văn hoá công khai thông tin’.
Trong điều kiện Việt Nam đã cơ bản hoàn thành quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã và đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc tế, vai trò của các hiệp hội liên quan đến thị trường dịch
vụ chứng khoán cần được nâng lên, đặc biệt do các hiệp hội này mới được thành lập nên hoạt động còn hạn chế:
- Nâng cao vai trò làm cầu nối giữa tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khoán và các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng chính sách, luật pháp…
- Xây dựng các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh chứng khoán.
- Phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức cung ứng dịch vụ chứng khoán trong việc đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Để thực hiện các cam kết quốc tế, đồng thời đáp ứng mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài đang được tham gia mạnh mẽ vào TTCK Việt Nam… tiếp tục xem xét nâng tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, công ty niêm yết nói riêng. Từng bước sớm triển khai thực hiện cho phép công ty chứng khoán liên doanh hoặc công ty chứng khoán cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Các giải pháp riêng về phía doanh nghiệp
3.2.2.1.Dịch vụ ngân hàng
Đào tạo nhân lực am hiểu dịch vụ ngân hàng
Doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo cán bộ nhân viên của doanh nghiệp, đặc biệt là cán bộ, nhân viên hoạt động liên quan đến lĩnh vực quản trị tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh việc tự bỏ kinh phí để tiến hành đào tạo, doanh nghiệp có thể phối hợp với các NHTM phổ biến kiến thức về các dịch vụ ngân hàng mới cho cán bộ nhân viên của mình.
Đầu tư áp dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ tin học
Để có thể tiếp cận, sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư áp dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là hệ thống máy tính nối mạng Internet. Thông qua hệ thống máy tính nối mạng, các doanh nghiệp có thể sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, giảm chi phí giao dịch. Hiện nay, chi phí đầu tư cho hệ thống máy tính và chi phí sử dụng mạng internet đã giảm, nên hoàn toàn có thể phù hợp với các DNNQD, tiềm lực tài chính còn hạn chế.
Nâng cao chất lượng hoạt động của quản trị tài chính doanh nghiệp. Hiện nay, chất lượng quản trị tài chính doanh nghiệp còn hạn chế là rào cản lớn nhất đối với DNNQD trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao chất lượng quản trị tài chính, hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính phục vụ cho việc tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng.
3.2.2.2.Dịch vụ bảo hiểm
Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo
Mục tiêu cơ bản của giải pháp này nhằm nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, nhất là các chủ DNNQD thấy được tầm quan trọng của dịch vụ bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh các chương trình quảng cáo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức quảng cáo khác, cần đẩy mạnh thực hiện các chương trình phổ biến kiến thức về dịch vụ bảo hiểm cho các nhà quản lý doanh nghiệp. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm và các cơ quan quản lý của Nhà nước, Hiệp hội bảo hiểm. Mục tiêu cuối cùng cần tiến đến là phải đưa việc tiếp cận
và sử dụng dịch vụ bảo hiểm thành một nếp sống văn hoá – văn hoá bảo hiểm trong đời sống xã hội.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, xử lý vi phạm.
Bên cạnh giải pháp mang tính tự nguyện, cần phải nâng cao hiệu quả và hiệu quả của giải pháp mang tính bắt buộc. Đó là đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, xử lí vi phạm đối với các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ bảo hiểm, nhất là đối với các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Chẳng hạn như trường hợp của Đà Nẵng, việc tham gia bảo hiểm, khai báo về rủi ro bảo hiểm và nhận bồi thường bảo hiểm vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, song đồng thời cũng là vì lợi ích chung của cộng đồng.
3.2.2.3.Dịch vụ chứng khoán
Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Mục tiêu cơ bản của giái pháp này nhằm nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, nhất là các chủ doanh nghiệp tư nhân thấy được vai trò của dịch vụ chứng khoán. Các chương trình phổ biến kiến thức được thực hiện một cách rộng rãi, linh hoạt, bao gồm trên các phương tiện thông tin đại chúng, các chương trình phổ biến kiến thức, đào tạo trong các trường đại học và các khoá đào tạo ngắn hạn khác.
Cơ cấu lại thị trường tài chính, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến sự cân đối giữa thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán
Thông qua việc cơ cấu lại thị trường tài chính, trong đó đặc biệt là việc chấn chỉnh lại thị trường tín dụng, nhất là tín dụng ưu đãi của Chính phủ thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển. Bao gồm việc chấn chỉnh hoạt động cho vay
của các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng, buộc cách doanh nghiệp nói chung trong đó có DNNQD phải tính toán và lựa chọn dịch vụ chứng khoán sao cho có hiệu quả nhất.
Đẩy mạnh thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước
Một thực tế hiện nay có thể được xem là “quy định bất thành văn”, đó
là khi các doanh nghiệp Nhà nước đến vay vốn ngân hàng có nhiều thuận lợi rất nhiều. Do vậy, khi thực hiện cổ phần hoá, phần lớn các doanh nghiệp chuyển thành DNNQD và buộc các ngân hàng sẽ phải xem xét kỹ lưỡng hơn hồ sơ xin vay vốn của các doanh nghiệp này. Bản thân các doanh nghiệp cũng phải tính toán, xem xét kỹ hơn giữa các hình thức huy động vốn trong đó việc sử dụng dịch vụ chứng khoán nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
KẾT LUẬN
Các DNNQD đóng vai trò ngày càng quan trọng và trở thành động lực phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập, hiện vẫn còn một số hạn chế, rào cản đối với các doanh nghiệp này trong việc tiếp cận và sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán. Điều này đã tác động tiêu cực không nhỏ đến sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh .
Để giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNQD phát triển tốt hơn, vấn đề tiếp cận, sử dụng các dịch tài chính trên thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam hiện nay đang được đặt lên hàng đầu. Khi các DNNQD vượt qua được những rào cản, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính có hiệu quả, đương nhiên các doanh nghiệp sẽ củng cố được uy tín, vị thế của mình trên thị trường, có đủ tự tin trong cạnh tranh, đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO.
Như đã trình bày từ phần mở đầu, trong bối cảnh Việt Nam mới gia nhập WTO, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không ít. Để đưa ra được hệ thống các quan điểm và giải pháp giúp các DNNQD Việt Nam tiếp cận tốt nhất với các dịch vụ tài chính, luận văn xuất phát từ việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD. Trên cơ sở đó, nghiên cứu, đánh giá các yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD.
Nếu chỉ quan tâm đến lý luận thôi chưa đủ, luận văn còn đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, luận văn còn đề cập đến một số nét cơ bản về quá trình hội nhập thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam. Trên cơ