Kế toán quản trị - 2

những căn cứ xác thực để ra các quyết định kinh doanh hợp lý và có hiệu quả. Đặc biệt, giúp quản trị doanh nghiệp có thể đánh giá kết quả của từng trung tâm trách nhiệm về chi phí trong doanh nghiệp.

- Kế toán quản trị cung cấp hệ thống tài liệu dự toán sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện các dự toán ngân sách doanh nghiệp, giúp quản trị phát hiện ra những khả năng tiềm tàng và tìm mọi biện pháp để huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong các kỳ tiếp theo, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Với chức năng là chọn lọc và ghi chép số liệu, phân tích các số liệu, lập báo cáo kết quả kinh doanh, kế toán quản trị có vai trò rất lớn đối với công tác quản lý trong nội bộ doanh nghiệp. Có thể khái quát mô hình chung về quy trình quản trị doanh nghiệp và quy trình của kế toán quản trị như sau:

1.1.3.1. Quy trình quản trị doanh nghiệp

Với chức năng quản lý doanh nghiệp, quy trình quản trị doanh nghiệp được thực hiện theo trình tự sau đây:

- Lập kế hoạch: Đây là bước đầu tiên đối với các nhà quản trị doanh nghiệp

Hàng năm, quản trị doanh nghiệp phải thiết lập kế hoạch sản xuất – kinh tế - tài chính, kế hoạch đầu tư nhằm huy động tối đa mọi nguồn nhân tài vật lực vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế những rủi ro trong kinh doanh để đạt được tổng mức lợi nhuận cao nhất của doanh nghiệp.

- Tổ chức thực hiện kế hoạch: Để thực hiện chức năng này, quản trị doanh nghiệp luôn luôn cần một lượng thông tin rất lớn. Đặc biệt là những thông tin phát sinh hàng ngày để kịp thời điều chỉnh, tổ chức thực hiện, như: Thông tin về giá bán sản phẩm, thông tin về giá cả các yếu tố đầu vào, thông tin về năng suất, chất lượng sản phẩm…

- Kiểm tra giám sát: Trong quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch, quản trị doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kế hoạch đã đặt ra. Qua việc kiểm tra, giám sát này giúp quản trị doanh nghiệp phát hiện ra những mặt mạnh, mặt yếu của công tác tổ chức thực hiện kế hoạch. Trên cơ sở đó, tìm mọi biện pháp khắc phục để hướng đến các mục tiêu đã đặt ra.

- Ra quyết định: Việc ra quyết định là chức năng rất cơ bản và thường xuyên của quản trị doanh nghiệp. Song, vấn đề không phải đơn giản ở chỗ: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường xảy ra những tình huống phức tạp, việc lựa chọn để ra các quyết định hợp lý, có hiệu quả là một vấn đề hết sức khó khăn. Và đặc biệt càng khó khăn hơn nếu quản trị doanh nghiệp không được cung cấp đầy đủ những thông tin của kế toán quản trị.

Với những chức năng trên của quản trị doanh nghiệp, quy trình quản trị doanh nghiệp được lặp đi lặp lại theo chu kỳ của quá trình sản xuất kinh doanh và chu kỳ sau sẽ tiến bộ hơn chu kỳ trước.

1.1.3.2. Quy trình của kế toán quản trị

Với chức năng là thu thập, xử lý và cung cấp thông tin, quy trình của kế toán quản trị được thể hiện theo trình tự sau:

- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu: Để cung cấp cho quản trị doanh nghiệp lượng lớn các thông tin một cách có hệ thống, kế toán quản trị trước hết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu thông tin một cách đầy đủ, chính xác và toàn diện. Đây chính là những căn cứ quan trọng nhất giúp quản trị doanh nghiệp có cơ sở để xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra giám sát tình hình thực hiện kế hoạch và ra các quyết định kinh doanh.

- Dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh: Trên cơ sở của kế hoạch kinh tế tài chính, kế toán quản trị tiến hành xây dựng các dự toán ngân sách về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng hệ thống chỉ tiêu thông tin kế toán nhằm cung cấp cho quản trị doanh nghiệp phát huy các nguồn lực vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Thu thập, xử lý các thông tin thực hiện: Đây là chức năng rất cơ bản nhằm thu thập và xử lý số liệu thực tế của kế toán quản trị. Để đánh giá tình hình thực hiện dự toán ngân sách của doanh nghiệp, kế toán quản trị phải tiến hành thu thập và xử lý những số liệu phản ánh tình hình thực tế bằng hệ thống chỉ tiêu thông tin kế toán. Mặt khác, kế toán quản trị phải thường xuyên thu thập và xử lý những thông tin hàng ngày, trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp quản trị doanh nghiệp kịp thời xử lý mọi tình huống nhằm đảm bảo quản lý doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao.

- Lập báo cáo kế toán quản trị: Trên cơ sở thu thập và xử lý các thông tin thực hiện, kế toán quản trị phải lập báo cáo, nhằm cung cấp đầy đủ nhất, chính xác nhất, toàn diện nhất cho quản trị doanh nghiệp, giúp họ có căn cứ để lập kế hoạch, tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, ra các quyết định nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Với những chức năng trên của kế toán quản trị, quy trình của kế toán quản trị được lặp lại ở chu kỳ sản xuất kinh doanh lần sau và tất nhiên ở chu kỳ sau, quy trình kế toán quản trị sẽ được hoàn thiện hơn.

Như vậy, quy trình quản trị doanh nghiệp và quản trị kế toán quản trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm thúc đẩy mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn phát triển.

Ta có thể khái quát chức năng quản trị và vai trò thông tin kế toán quản trị qua sơ đồ sau:


Triển khai bản dự toán chung và các bản dự toán chi tiết

Chính thức hóa thành các chỉ tiêu kinh tế

Các chức năng quản trị Thông tin kế toán quản trị


Xác định mục tiêu

Lập kế hoạch

Tổ chức thực hiện

Kiểm tra, đánh giá

Thu nhập kết quả thực hiện

Soạn thảo báo cáo thực hiện

Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa thông tin kế toán với chức năng kế toán quản trị

1.2. Đối tượng nghiên cứu của kế toán quản trị

Khi trở thành một môn khoa học độc lập, kế toán quản trị có đối tượng nghiên cứu riêng. Đối tượng nghiên cứu của kế toán quản trị là các quá trình khai thác sự hình thành và phát sinh các loại chi phí khác nhau nhằm hướng đến việc thực hiện các mục tiêu đã được xác định để giúp quản trị doanh nghiệp điều hành, quản lý doanh nghiệp có hiệu quả nhất.

Kế toán quản trị là một phân hệ kế toán trong các tổ chức hoạt động, được thể hiện rò nét nhất trong các doanh nghiệp kinh doanh, các đơn vị hành chính sự nghiệp tự chủ tài chính. Do vậy, kế toán quản trị cũng có đối tượng nghiên cứu chung của kế toán là tài sản, nguồn vốn gắn với các quan hệ tài chính của tổ chức hoạt động. Sự vận động của tài sản, nguồn vốn gắn với các quan hệ tài chính vì mục tiêu lợi nhuận được kế toán quản trị coi trọng hàng đầu. Như vậy, kế toán quản trị bắt đầu nghiên cứu ở một tổ chức hoạt động từ khi thành lập, sau đó tiến hành các hoạt động kinh doanh như cung cấp các yếu tố đầu vào, sản xuất ra sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm và thực hiện phân phối kết quả tài chính cho tới khi giải thể hoặc phá sản. Kế toán quản trị cũng gắn liền với một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó kế toán còn nghiên cứu những đối tượng đặc thù và cụ thể hóa nhằm cung cấp các thông tin nhanh, chính xác cho các cấp quản trị đạt được mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận

- Nghiên cứu sâu về chi phí của doanh nghiệp theo các góc độ khác nhau như phân loại chi phí, dự toán chi phí, xây dựng định mức chi phí, phân tích mối quan hệ

giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận… nhằm mục đích kiểm soát và quản lý chi phí chặt chẽ và dự toán chi phí chính xác để tối thiểu hóa chi phí.

- Kế toán quản trị các yếu tố sản xuất như lao động, hàng tồn kho và tài sản cố định nhằm khai thác tối đa các yếu tố sẵn có, đảm bảo chi phí thấp nhất và lợi nhuận cao nhất, đồng thời thỏa mãn nhu cầu của thị trường.

- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, doanh thu, lợi nhuận thông qua các hệ thống báo cáo kết quả kinh doanh trong việc hình thành các quyết định điều hành hoạt động của doanh nghiệp.

- Xây dựng các trung tâm trách nhiệm, phân tích chi phí, doanh thu và lợi nhuận theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp để đưa ra các quyết định cần đầu tư thêm hay thu hẹp hoặc chấm dứt hoạt động của từng bộ phận nhằm phát triển và bảo đảm an toàn nguồn vốn kinh doanh. Đồng thời xác định trách nhiệm của cá nhân, bộ phận trong tổng thể doanh nghiệp.

- Kiểm soát thực hiện từng khâu công việc, làm rò nguyên nhân gây ra sự biến động giữa chi phí theo dự toán và thực tế. Từ đó phát huy những thế mạnh trong hoạt động kinh doanh và các biện pháp ngăn chặn những điểm yếu nhằm nâng cao hiệu quả của từng hoạt động kinh doanh.

- Cung cấp các thông tin cần thiết để làm sáng tỏ việc đưa ra quyết định kinh doanh hiện tại và tương lai. Xây dựng các dự toán chi phí, doanh thu và kết quả tài chính nhằm dự báo các kết quả kinh doanh diễn ra theo kế hoạch.

- Phân tích và lựa chọn các phương án đầu tư ngắn hạn và dài hạn để đảm bảo an toàn và phát triển vốn cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất.

Như vậy, xuất phát từ đối tượng nghiên cứu trên, kế toán quản trị nhằm cung cấp các thông tin về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp như: Chi phí của từng bộ phận (trung tâm chi phí), từng công việc, sản phẩm. Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện với kế hoạch về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, quản lý tài sản, vật tư tiền vốn, công nợ. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và lợi nhuận, lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn, lập dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh… nhằm phục vụ cho việc điều hành, kiểm tra và ra các quyết định kinh tế.

1.3. So sánh kế toán quản trị và kế toán tài chính

1.3.1. Giống nhau

Mặc dù có sự khác nhau về mục tiêu, nhưng kế toán quản trị và kế toán tài chính lại có những điểm giống nhau cơ bản sau đây:

- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đều quan tâm đến tài sản, nguồn vốn, tình hình lưu chuyển tiền tệ, công nợ và báo cáo kết quả kinh doanh.

- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán.

- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều có mối liên hệ trách nhiệm, quyền lợi vật chất, pháp lý của nhà quản trị doanh nghiệp.

Chính những điểm giống nhau cơ bản giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính đã khẳng định rằng: Kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành không tách rời hệ thống kế toán của doanh nghiệp.

1.3.2. Khác nhau

Mặc dù đều có nguồn gốc hình thành từ hạch toán kế toán nhưng giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính lại có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:

1.3.2.1. Về đối tượng sử dụng thông tin

Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán tài chính là bản thân doanh nghiệp và các đối tượng ngoài doanh nghiệp như: Ngân hàng, nhà cho vay, nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng, các cổ đông. Còn đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị chỉ cung cấp cho các cấp quản trị trong doanh nghiệp như: Quản trị doanh nghiệp, các phòng ban chức năng, các phân xưởng, tổ đội sản xuất…Đặc biệt thông tin kế toán quản trị không cung cấp ra ngoài doanh nghiệp.

Như vậy, những thông tin của kế toán quản trị chỉ được sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp, không được cung cấp ra bên ngoài doanh nghiệp.

1.3.2.2. Về đặc điểm của thông tin

Đặc điểm thông tin của kế toán tài chính là phản ánh quá khứ nghĩa là các nghiệp vụ kinh tế mà kế toán tài chính phản ánh đã phát sinh, đặt trọng tâm là thông tin quá khứ, phản ánh không linh hoạt và theo một nguyên tắc chặt chẽ. Nhưng, đặc điểm thông tin của kế toán quản trị lại đặt trọng tâm hướng đến tương lai nhiều hơn. Điều đó là vì, ngoài việc cung cấp những thông tin thực hiện, quá khứ, kế toán quản trị cần phải cung cấp những thông tin dự toán ngân sách sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hết sức linh hoạt theo yêu cầu sử dụng thông tin của các cấp quản trị khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.

1.3.2.3. Về kỳ lập báo cáo

Đối với kế toán tài chính, kỳ lập báo cáo theo định kỳ: Hàng năm, giữa niên độ. Còn đối với kế toán quản trị, việc lập báo cáo là thường xuyên, có thể là hàng ngày, hàng tuần, mười ngày, hàng tháng, thàng quý… Bởi vì, kế toán quản trị thường phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của từng cấp quản lý khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp. Cho nên, bất kể thời gian nào, nếu quản trị doanh nghiệp cần nắm về vấn đề nào đó trong hoạt động kinh doanh thì kế toán quản trị phải cung cấp những thông tin một cách đầy đủ và kịp thời.

1.3.2.4. Về chủng loại báo cáo

Đối với kế toán tài chính, chủng loại báo cáo được cố định ở bốn loại báo cáo đó là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính. Còn đối với kế toán quản trị không cố định ở loại báo cáo nào. Chủng loại báo cáo của kế toán quản trị rất linh hoạt, có thể nói là nhiều và rất cụ thể. Bởi vì, thông tin của kế toán quản trị chỉ phục vụ trong nội bộ doanh nghiệp. Ngoài phục vụ thông tin cho quản trị doanh nghiệp, thông tin kế toán quản trị phải cung cấp cho các cấp quản lý khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.

1.3.2.5. Về tính nguyên tắc

Hệ thống kế toán tài chính phải tuân thủ theo nguyên tắc đã được quy định thống nhất từ trung ương đến địa phương trong mọi thành phần kinh tế. Ở bất kỳ một quốc gia nào cũng vậy, hệ thống kế toán tài chính được quy định rất nghiêm ngặt về hình thức, trình tự xử lý, quy trình công việc kế toán tài chính cho đến việc lập hệ thống báo cáo tài chính đều được quy định chặt chẽ để đảm bảo tính thống nhất, tính pháp lý của thông tin. Đối với kế toán quản trị hoàn toàn không chịu bất kỳ một sự ràng buộc nào. Hệ thống thông tin của kế toán quản trị là hết sức linh hoạt, đáp ứng mọi yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Điều quan tâm nhất của các nhà quản trị đối với thông tin kế toán quản trị là có hữu ích hay không?

Bảng 1.1. Bảng so sánh kế toán tài chính và kế toán quản trị



Kế toán quản trị

Kế toán tài chính

Đối tượng sử dụng thông

tin

Các nhà quản trị bên trong

doanh nghiệp

Những đối tượng bên ngoài

doanh nghiệp là chủ yếu

Đặc điểm thông tin

- Hướng về tương lai

- Linh hoạt theo yêu cầu của nhà quản trị

- Biểu hiện thông qua ba

thước đo

- Phản ánh quá khứ

- Cố định, tuân thủ nguyên tắc kế toán

- Biểu hiện dưới thước đo

giá trị

Yêu cầu thông tin

Đòi hỏi tính kịp thời cao

hơn tính chính xác

Đòi hỏi tính chính xác cao

Phạm vi cung cấp thông tin

Từng bộ phận, toàn doanh

nghiệp

Toàn doanh nghiệp

Các loại báo cáo

Báo cáo theo yêu cầu và mục đích sử dụng của nhà

quản trị

Báo cáo tài chính do nhà nước quy định

Kỳ lập báo cáo

Thường xuyên

Định kỳ

Quan hệ với các ngành học

khác

Quan hệ nhiều

Quan hệ ít

Tính bắt buộc

Không có tính bắt buộc

Có tính bắt buộc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Kế toán quản trị - 2

1.4. Các phương pháp nghiên cứu kế toán quản trị

1.4.1. Phương pháp chứng từ kế toán

Ngoài việc sử dụng những thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và thực sự đã hoàn thành trên các chứng từ bắt buộc, mang tính pháp lý cao, kế toán còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hướng dẫn phản ánh các nghiệp vụ kinh tế “nội sinh” trong nội bộ doanh nghiệp. Các chứng từ này do doanh nghiệp quy định trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước hoặc doanh nghiệp tự lập ra theo các yêu cầu quản lý cụ thể ở doanh nghiệp. Việc thu thập, kiểm tra, xử lý và luân chuyển chứng từ cũng được xác lập theo cách riêng, nhằm đảm bảo cung cấp các thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích hợp cho việc ra các quyết định quản lý.

Ngoài ra, các thông tin kế toán quản trị còn dựa vào các thông tin khác, không được thể hiện trong các chứng từ bắt buộc cũng như chứng từ hướng dẫn. Điều này đã tạo nên sự khác biệt giữa thông tin của kế toán quản trị với thông tin của kế toán tài chính như đã đề cập ở phần trên.

1.4.2. Phương pháp tài khoản kế toán

Để có số liệu một cách chi tiết, tỉ mỉ phục vụ quản trị doanh nghiệp, kế toán quản trị phải sử dụng những tài khoản chi tiết đáp ứng yêu cầu quản lý từng chỉ tiêu cụ thể. Trong thực tế kế toán quản trị mở thêm các khoản cấp 2 mà Nhà nước không quy định, các tài khoản cấp 3, cấp 4… và chi tiết các tài khoản theo từng địa điểm phát sinh chi phí, từng loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ… các doanh nghiệp căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán Nhà nước ban hành cho kế toán tài chính để mở các tài khoản chi tiết và tổ chức mã hoá hệ thống tài khoản phục vụ cho kế toán quản trị.

1.4.3. Phương pháp tính giá

Trong kế toán tài chính, phương pháp tính giá được vận dụng theo các nguyên tắc, chuẩn mực quy định thống nhất của mỗi quốc gia để trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính một cách thống nhất.

Đối với kế toán quản trị, việc tính giá các loại tài sản mang tính linh hoạt cao hơn và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Các dữ liệu để tính giá không chỉ căn cứ vào các chi phí thực tế đã phát sinh mà còn dựa vào sự phân loại các chi phí thích hợp cho từng quyết định cá biệt, đặc biệt là các quyết định mang tính ngắn hạn. Như vậy, phạm vi, nội dung của chi phí trong giá phí của kế toán quản trị không giống, thậm chí có nhiều khác biệt so với kế toán tài chính.

1.4.4. Phương pháp tổng hợp và cân đối kế toán

Các báo cáo kế toán – hình thức biểu hiện của phương pháp tổng hợp cân đối trong kế toán quản trị là các bảng cân đối bộ phận (cho từng bộ phận, trung tâm chi phí, loại tài sản…). Các báo cáo này còn được gọi là Báo cáo kế toán nội bộ, được lập theo kỳ hạn ngắn hơn các báo cáo tài chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng cân

đối bộ phận còn sử dụng rộng rãi các thước đo về hiện vật và thời gian lao động. Đồng thời, ngoài các tổng hợp cân đối về các chỉ tiêu quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện, kế toán còn thiết lập các cân đối trong dự toán, trong kế hoạch giữa nhu cầu tài chính và nguồn tài trợ, giữa yêu cầu sản xuất – kinh doanh và các nguồn lực được huy động…

1.4.5. Phương pháp phân loại chi phí

Nghiên cứu, phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau nhằm tạo lập các thông tin thích hợp cho việc ra các quyết định là một đặc thù của kế toán quản trị. Ngoài cách phân loại chi phí theo tính chất, nội dung kinh tế của chi phí và phân loại chi phí theo công dụng của chi phí của kế toán tài chính, kế toán còn sử dụng nhiều cách phân loại chi phí khác như:

- Phân loại chi phí theo mối quan hệ của chi phí với khối lượng hoạt động: phân biệt chi phí bất biến, chi phí khả biến, chi phí hỗn hợp.

- Phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định: phân biệt chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được.

- Phân loại chi phí khác cho việc ra quyết định: chi phí cơ hội, chi phí chìm, chi phí chênh lệch…

Các cách phân loại chi phí này sẽ được đề cập cụ thể ở chương 3. Các cách phân loại chi phí nói trên giúp kế toán quản trị thu thập được các thông tin chi phí thích hợp cho từng loại quyết định; là căn cứ để phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận – một trong những nội dung quan trọng khi xem xét các quyết định kinh doanh.

1.4.6. Phương pháp thiết kế thông tin dưới dạng có thể so sánh được

Thông tin sẽ vô dụng nếu thiếu các tiêu chuẩn để so sánh với nó. Từ các số liệu thu thập được, kế toán quản trị sẽ phân tích và thiết kế chúng thành dạng có thể so sánh được. Chẳng hạn, kế toán quản trị phải cung cấp các thông tin thực hiện để có thể so sánh với kế hoạch, định mức hoặc dự toán chi phí, các giá phí, giá thành, mức lợi nhuận của các phương án đang lựa chọn… Quá trình quyết định của nhà quản trị phải dựa trên sự phân tích, so sánh này để đánh giá và ra các quyết định.

Dạng phương trình rất tiện dụng cho việc tính và dự đoán một số quá trình chưa xảy ra căn cứ vào các dữ kiện đã có và mối quan hệ ràng buộc giữa các biến số trong phương trình. Phương pháp trình bày thông tin theo dạng phương trình là căn cứ để tính toán lập kế hoạch và phân tích dự báo trong kế toán quản trị.

Ngoài ra, kế toán quản trị còn sử dụng phương pháp trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán theo dạng phương trình và đồ thị.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/06/2022