Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam - 2

Biểu đồ 3.7 Thực trạng nhận diện tài sản tài chính 77

Biểu đồ 3.8 Thực trạng nhận diện nợ phải trả tài chính 78

Biểu đồ 3.9 Thực trạng phân loại tài sản tài chính 80

Biểu đồ 3.10 Thực trạng phân loại Nợ phải trả tài chính 80

Biểu đồ 3.11 Thực trạng nhận diện công cụ tài chính phái sinh 81

Biểu đồ 3.12 Sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong doanh nghiệp. 82

Biểu đồ 3.13 Đo lường ban đầu tài sản tài chính 83

Biểu đồ 3.14 Đo lường sau ban đầu tài sản tài chính 85

Biểu đồ 3.15 Đo lường ban đầu Nợ phải trả tài chính 87

Biểu đồ 3.16 Đo lường sau ghi nhận ban đầu Nợ phải trả tài chính 88

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.

Biểu đồ 3.17: Đo lường ban đầu Công cụ vốn chủ sở hữu 89

Biểu đồ 3.18 Thời điểm ghi nhận công cụ tài chính cơ sở 90

Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam - 2

Biểu đồ 3.19 Thực trạng ghi nhận Trái phiếu chuyển đổi 91

Biểu đồ 3.20 Thực trạng ghi nhận Cổ phiếu ưu đãi 92

Biểu đồ 3.21 Thực trạng ghi nhận tài sản tài chính 93

Biểu đồ 3.22 Độ phức tạp của nghiệp vụ kế toán công cụ tài chính cơ sở 109

Biểu đồ 3.23 Độ phức tạp của nghiệp vụ kế toán công cụ tài chính phái sinh 109

Biểu đồ 3.24 Nguyên nhân gây nên những hạn chế trong kế toán công cụ tài chính..110 Biểu đồ 3.25 Mức độ hài lòng với kế toán công cụ tài chính 111

Biểu đồ 4.1 Thông tin chủ đạo giúp kế toán công cụ tài chính. 143


Sơ đồ:

Sơ đồ 2.1: Trình tự xác định giá hợp lý 30

Sơ đồ 2.2 Ghi nhận công cụ tài chính phái sinh 43

Sơ đồ 2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ trình bày và công bố thông tin về công cụ tài chính 51

Sơ đồ 4.1 Mối quan hệ giữa thông tin kế toán công cụ tài chính với việc ra quyết định kinh doanh 115

Sơ đồ 4.2 Đặc điểm của Trái phiếu chuyển đổi 126


CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

1.1 Sự cần thiết đề tài nghiên cứu

Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới biểu hiện qua dòng chảy mạnh mẽ về vốn, kỹ thuật và hàng hóa. Có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập Báo cáo tài chính cho tập đoàn theo thông lệ quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang gia tăng xuất khẩu và thiết lập các hoạt động ở nước ngoài và do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và phải lập Báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin, kế toán phải liên tục đổi mới. Với vai trò là một công cụ quản lý, kế toán cũng đang chuyển đổi để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quá trình hội nhập. Đổi mới kế toán theo hướng hội nhập không chỉ đem đến cho doanh nghiệp một công cụ quản lý hữu ích mà còn tạo khả năng cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán chất lượng cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Trước yêu cầu của quản lý doanh nghiệp, thực trạng nghề nghiệp đòi hỏi phải phát triển khoa học kế toán tương thích với thực trạng hoạt động kinh doanh và yêu cầu quốc tế.

Hiện nay theo thông lệ quốc tế, kế toán công cụ tài chính phải tuân thủ theo các chuẩn mực: IAS32 “Trình bày công cụ tài chính”; IAS 39 “Ghi nhận và đo lường công cụ tài chính”; IFRS7 “Công bố thông tin về công cụ tài chính”

Về phía Việt Nam, hiện nay chưa có chuẩn mực riêng về kế toán công cụ tài chính: Kế toán công cụ tài chính đã được quy định rải rác trong các chuẩn mực VAS01, VAS10, VAS16... thực tế đó dẫn đến nhiều khó khăn cho việc quản lý, chuẩn hóa thông tin cũng như việc thực hiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Công cụ tài chính chiếm một tỷ trọng khá lớn trong các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán: Đối với nhà đầu tư- công cụ tài chính nằm trong khoản mục tiền, phải thu, đầu tư ; Đối với người phát hành- công cụ tài chính nằm trong khoản mục vay, trái phiếu


phát hành, phải trả, vốn cổ phần. Sự thay đổi giá trị của khoản mục này ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với thực trạng kế toán công cụ tài chính hiện nay dẫn đến số liệu trên Báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu hữu ích và có thể so sánh được của thông tin kế toán.

Đặc biệt hiện nay trong nền kinh tế có nhiều nghiệp vụ về công cụ tài chính phái sinh như: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng hoán đổi, Hợp đồng quyền chọn. Trong khi đó Chế độ Kế toán doanh nghiệp phi tài chính chưa đề cập đến đã gây lúng túng, thiếu nhất quán trong việc phản ánh, báo cáo tình hình tài chính, ảnh hưởng đến độ tin cậy và tính so sánh của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.

Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính đã có văn bản: Quyết định 29/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành chế độ kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng; Quyết định 16/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN quy định chế độ Báo cáo tài chính về việc công bố thông tin về công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên các doanh nghiệp phi tài chính khi ký các hợp đồng phái sinh với ngân hàng, tổ chức tài chính thì kế toán theo các cách khác nhau vì chưa có văn bản hướng dẫn kế toán từ Bộ Tài chính. Do đó cần khảo sát thực trạng kế toán công cụ tài chính phái sinh trong các doanh nghiệp phi tài chính để giúp cho việc xây dựng, ban hành chế độ, hướng dẫn khuôn mẫu kế toán cho doanh nghiệp.

Xuất phát từ thực tiễn của doanh nghiệp, yêu cầu cung cấp thông tin hữu ích của nhà đầu tư, từ thực tế hội nhập nghề kế toán, sau một thời gian nghiên cứu tác giả lựa chọn đề tài “ Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam ” để làm luận án tiến sĩ của mình.

1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu


1.2.1 Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trên thế giới


1.2.1.1. Về nhận diện công cụ tài chính

Có nhiều công trình nghiên cứu về bản chất, đặc điểm cũng như các quy định kế toán của từng loại công cụ tài chính nhưng hiếm khi đưa ra định nghĩa chung : Theo Lanny G. Chasteen, Richard E. Flaherty, Melvin C.O'Connor(1998):


Intermediate accounting, 6th ed, thì công cụ tài chính bao gồm: Tiền mặt, bằng chứng về lợi ích của chủ sở hữu trong tổ chức, hợp đồng mà theo thỏa thuận một bên có trách nhiệm chuyển giao tiền mặt hoặc công cụ tài chính khác [27, tr608]. Với P.T. Lopes, L.L. Rodrigues(2007), công cụ tài chính bao gồm cả quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng giúp trao đổi trực tiếp hay gián tiếp các công cụ thanh toán [53]. Theo H.S Houthakker và P.J Williamsen, người sở hữu công cụ tài chính có quyền theo thỏa thuận đối với lãi và gốc khi nắm giữ trái phiếu, quyền đối với cổ tức có thể được hoàn trả trong tương lai [45].

Như vậy hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất với các đặc điểm của công cụ tài chính: là một hợp đồng giữa các bên; công cụ tài chính bao gồm cả quyền (tài sản) hoặc nghĩa vụ (nợ phải trả) theo hợp đồng; theo hợp đồng này có thể trao đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các công cụ thanh toán.

1.2.1.2. Về đo lường công cụ tài chính

Các tác giả M.E Barth, W.H. Beaver, W. Landman trong bài viết “The Relevance of the Value Relevance Literature for Financial Accounting Standard Setting: Another View” trên báo Jounal of Accounting and Economics, năm 2001 đã chỉ rõ cần phải có sự phù hợp trong việc kế toán công cụ tài chính đặc biệt phải sử dụng kế toán theo giá trị hợp lý[18].

Tác giả Karen K. Nelson trong bài viết “ Fair Value Accounting for Commercial Bank: An Empirical Analysis of SFAS No.107”, đăng trên The Accounting Review (1996) đã chỉ rõ việc cần phải kế toán theo giá trị hợp lý và các nguyên tắc trong việc kế toán theo giá trị hợp lý tại các ngân hàng thương mại, từ đó làm cơ sở cho các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế [58].

Các nghiên cứu về cơ sở đo lường công cụ tài chính theo giá trị hợp lý của tác giả Morris và Selon(1991)[57]; Nelson(1996)[58]; Burkhardt(2006)[15]; Aslanertik (2009)[13]. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các tác giả trên đều ủng hộ đo lường công cụ tài chính theo giá trị hợp lý đồng thời chỉ ra điểm yếu của cơ sở đo lường này là độ tin cậy của dữ liệu sử dụng trong các ước tính giá trị hợp lý trên thực tiễn.


Theo Bradbury(2003) có 3 vấn đề liên quan đến sử dụng giá trị hợp lý: các thuộc tính để đo lường giá trị, ý nghĩa của giá trị hợp lý, phương pháp kế toán các chi phí giao dịch mua tài sản[14].

Hague(2004) và Bradbury(2003) cho rằng đo lường công cụ tài chính theo giá trị hợp lý là thích hợp nhất, đặc biệt với công cụ tài chính phái sinh. Hague và Bradbury lý giải, công cụ tài chính phái sinh có giá gốc rất nhỏ hoặc không có nhưng lợi ích và tổn thất chúng gây ra cũng như giá trị thanh toán các công cụ này phụ thuộc vào giá trị hợp lý của chúng. Do vậy, không đo lường giá trị hợp lý của công cụ tài chính này đồng nghĩa với việc không trình bày chúng trên Bảng cân đối kế toán trong khi chúng có ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng tài chính của tổ chức. Ngoài ra, thông tin về giá trị hợp lý của công cụ phái sinh giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính hiểu được bản chất rủi ro và cách thức doanh nghiệp quản trị rủi ro có thể phát sinh từ công cụ này[42].

Giá trị hợp lý là cơ sở phù hợp nhất của việc ghi nhận các công cụ tài chính phái sinh. Theo kết luận của nhóm nghiên cứu các vấn đề về kế toán công cụ tài chính phái sinh (JWG, 2000), giá trị hợp lý là cơ sở ghi nhận và đo lường các tài sản và khoản nợ tài chính, bao gồm các công cụ tài chính phái sinh. Lý do của sự lựa chọn này là do giá trị hợp lý đem lại sự đánh giá trung thực, khách quan về các công cụ tài chính trên cơ sở các yếu tố thị trường và không bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của tổ chức áp đặt lên cách tính toán giá trị tài sản.

Theo Jemarkowicz và Gornik Tomaszewski(2006) một vấn đề liên quan đến phương pháp giá trị hợp lý là tính thiếu ổn định trong nguyên tắc của kế toán. Trong khi các công cụ tài chính được ghi nhận theo giá trị hợp lý, các tài sản tài chính được ghi theo giá vốn. Mặt khác, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi trình bày thông tin do IAS32, IAS 39 yêu cầu cập nhật thường xuyên sự thay đổi về giá trị hợp lý trên Báo cáo tài chính. Phương pháp giá trị hợp lý cũng khó áp dụng trong thực tiễn do thiếu các mô hình đánh giá rủi ro và phương pháp xác định giá trị đối với những công cụ tài chính khó xác định giá thị trường[40]. Đồng thời có ý kiến cho rằng giá trị hợp lý là một phần nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính


suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thời ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới[12], [39], [56]. Tại Hoa Kỳ, suy thoái kinh tế vào cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính 2007-2010, nhiều ngành kinh tế của Hoa Kỳ thu hẹp sản xuất. Và thực tế này đã khiến cho các nhà hoạch định thị trường tín dụng, thị truờng chứng khoán cũng như các nhà quản lí đặt ra câu hỏi “Hệ thống tài chính Mỹ đổ vỡ có phải do lỗi của kế toán giá trị hợp lý?”

Một trong các vấn đề trung tâm của kế toán công cụ tài chính đó là cơ sở đo lường và áp dụng kế toán giá trị hợp lý. Trong quá trình cải tổ hệ thống kế toán tại Trung Quốc, vấn đề được tranh cãi nhiều nhất là áp dụng kế toán giá trị hợp lý. WenJing Li, Xiaoyan Lu, Minghai Wei(2007) đã đánh giá quá trình cải tổ kế toán của Trung Quốc thông qua nghiên cứu việc áp dụng kế toán giá trị hợp lý qua ¼ thế kỷ và đưa đến kết luận: Mô hình này được chấp nhận và từng bước áp dụng vào Hệ thống kế toán Trung Quốc [52].

Trong số ít các nghiên cứu tại các quốc gia đang chuyển đổi phải kể đến nghiên cứu của Songlan Peng (2005) về hài hòa của chuẩn mực kế toán Trung Quốc với IAS/ IFRS[58]; Công trình của Zeghal và Mhedbi (2006) về các nhân tố tác động đến áp dụng IAS/ IFRS tại các quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi[71]. Dựa vào quan điểm của Tay & Parker (1990), thành công của quá trình hài hòa kế toán được đánh giá ở cả hai khía cạnh là hài hòa về chuẩn mực và hài hòa trong thực hành kế toán tại các DN, Songlan Peng đã tổng kết các nghiên cứu về hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Trung quốc (CAS) với IAS/ IFRS và đi đến kết luận: sự hài hòa về chuẩn mực của CAS với IAS/ IFRS là cao nhưng việc thi hành các chuẩn mực này trên thực tế còn nhiều vấn đề, đặc biệt là việc áp dụng cơ sở đo lường giá trị hợp lý trên thực tiễn. Nếu những thay đổi trên không chỉ nhằm mục đích đánh bóng hình ảnh kế toán Trung Quốc để thu hút đầu tư nước ngoài, thì đây sẽ là một mốc đánh dấu một sự chuyển dịch toàn diện của các doanh nghiệp Trung Quốc nói riêng, nền kinh tế cũng như Chính phủ Trung Quốc nói chung.


Như vậy hầu hết giới khoa học nhấn mạnh ưu điểm của phương pháp kế toán giá trị hợp lý- điều này còn là mới mẻ nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, đặc biệt là trong kế toán công cụ tài chính. Chính vì vậy tác giả luận án muốn nghiên cứu kế toán giá trị hợp lý nhằm tìm ra giải pháp để hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghệp phi tài chính tại Việt Nam.

1.2.1.3. Về ghi nhận công cụ tài chính

Ghi nhận công cụ tài chính phụ thuộc vào việc phân nhóm công cụ tài chính Công cụ tài chính không chỉ giúp doanh nghiệp tạo lập vốn, sử dụng vốn, đem

lại cơ hội kinh doanh mà còn tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, từ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản đến rủi ro thị trường. Vai trò của công cụ tài chính phái sinh trong phòng ngừa rủi ro là rất cần thiết, bên cạnh đó còn có mục tiêu đầu cơ của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận. L.EC.Wilson & Bryan(1997) cho rằng cần thiết xây dựng các quy định kế toán cho công cụ tài chính phái sinh theo mục đích sử dụng thay vì theo từng loại để có thể vận dụng các công cụ phái sinh mới để đảm bảo nguyên tắc tính hữu ích của thông tin đồng thời giảm thiểu chi phí xây dựng nguyên tắc cho công cụ tài chính phái sinh mới[69].

Chính vì vậy kế toán công cụ tài chính phái sinh theo US.GAAP và IAS/ IFRS đều xây dựng trên cơ sở mục đích sử dụng các công cụ này bao gồm:

Nguyên tắc kế toán công cụ tài chính phái sinh sử dụng cho mục đích kinh doanh Nguyên tắc kế toán công cụ tài chính phái sinh sử dụng cho mục đích phòng

ngừa rủi ro.

Các nghiên cứu về kế toán phòng ngừa rủi ro và công cụ tài chính phái sinh của Wilson và Bryan (1997); Heranandez (2003): các nhà nghiên cứu cho rằng kế toán phòng ngừa rủi ro và công cụ tài chính phái sinh là cần thiết, nhưng điều kiện áp dụng trên thực tế không dễ dàng vì có những lựa chọn khác nhau dẫn đến kết quả xử lý khác nhau của cùng một loại công cụ phái sinh[44].

1.2.1.3. Về trình bày công cụ tài chính

Các công cụ tài chính ngày càng phức tạp bởi sự kết hợp của nhiều công cụ tài chính khác nhau, điển hình như: trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi (vừa có


đặc điểm của nợ phải trả vừa có đặc điểm của vốn chủ sở hữu); công cụ tài chính phái sinh mới (kết hợp từ các giao dịch phái sinh khác nhau), công cụ phức hợp có công cụ phái sinh đi kèm... Vì vậy, việc nhận biết và trình bày công cụ tài chính ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Theo Young (1996), cổ phiếu ưu đãi thường được trình bày thiếu rõ ràng giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; Và Young(1996) đã chỉ ra khó khăn trong việc phân biệt các công cụ tài chính mới khi chúng kết hợp giữa giao dịch quyền chọn với giao dịch tương lai, hay kết hợp giữa vốn chủ sở hữu và nợ tài chính[70].

IAS 32 yêu cầu khi trình bày công cụ tài chính, do chính tổ chức phát hành kế toán cần tuân thủ nguyên tắc tôn trọng nội dung hơn hình thức; Cổ phiếu quỹ do doanh nghiệp mua vào phải ghi giảm trực tiếp vốn chủ sở hữu; Tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính chỉ được bù trừ cho nhau và ghi giá trị ròng trên báo cáo khi và chỉ khi doanh nghiệp có quyền pháp lý bù trừ hoặc có ý định thanh toán trên cơ sở ròng do tài sản và nợ phải trả được thanh toán cùng lúc.

1.2.1.4. Về công bố thông tin về công cụ tài chính

Công cụ tài chính ngày càng đa dạng và phức tạp do vậy đối tượng sử dụng thông tin yêu cầu ngày càng khắt khe hơn việc công bố thông tin về công cụ tài chính. Theo Caedo và Tirado (2004) thông tin về rủi ro mà doanh nghiệp đang gánh chịu có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận trong tương lai nên cần công bố cho người sử dụng báo cáo tài chính. Đồng thời Caedo và Tirado (2004) cho rằng các thông tin về rủi ro tác động đến DN, việc đo lường các rủi ro này sẽ cải thiện tính hữu ích của báo cáo tài chính đối với người sử dụng[22]

IFRS 7 yêu cầu công bố đủ thông tin về công cụ tài chính để người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá được:

Tầm quan trọng của công cụ tài chính đối với tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

Bản chất, quy mô rủi ro phát sinh từ công cụ tài chính tác động đến doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh và vào ngày lập báo cáo cùng với cách thức quản trị rủi ro của doanh nghiệp.

Xem tất cả 299 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí