Giáo dục tính trách nhiệm dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non - 2

Bảng 4.3. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 trước thực nghiệm ..124 Bảng 4.4. Điểm trung bình TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 trước thực nghiệm

theo từng tiêu chí 125

Bảng 4.5. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 sau thực nghiệm 126

Bảng 4.6. Điểm trung bình TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 sau thực nghiệm theo từng tiêu chí 126

Bảng 4.7. So sánh điểm trung bình TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 trước và sau thực nghiệm 127

Bảng 4.8. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước thực nghiệm (tính theo TC) 128

Bảng 4.9. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước thực nghiệm (tính theo %)..129 Bảng 4.10. So sánh điểm TBC_ TTN của trẻ 5-6 tuổi trước thực nghiệm theo

giới tính và khu vực 130

Bảng 4.11. Kết quả khảo sát nhận thức về trách nhiệm trước thực nghiệm 130

Bảng 4.12. Kết quả khảo sát hành động trách nhiệm trước thực nghiệm 131

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 279 trang tài liệu này.

Bảng 4.13. Kết quả khảo sát thái độ trách nhiệm trước thực nghiệm 131

Bảng 4.14. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi sau thực nghiệm (tính theo TC) .135 Bảng 4.15. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi sau thực nghiệm (theo %) 136

Giáo dục tính trách nhiệm dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non - 2

Bảng 4.16. So sánh điểm TBC_TTN của trẻ sau thực nghiệm theo giới tính và khu vực 136

Bảng 4.17. Kết quả khảo sát nhận thức về trách nhiệm sau thực nghiệm 137

Bảng 4.18. Kết quả khảo sát hành động trách nhiệm sau thực nghiệm 137

Bảng 4.19. Kết quả khảo sát thái độ trách nhiệm sau thực nghiệm 138

Bảng 4.20. So sánh mức độ trách nhiệm của trẻ 5-6 tuổi trước và sau thực nghiệm (theo TC) 140

Bảng 4.21. So sánh mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước và sau thực nghiệm (theo %) 141

Bảng 4.22. So sánh điểm TBC_TTN trước và sau thực nghiệm của trẻ 5-6 tuổi theo giới tính và khu vực 141

Bảng 4.23. Kiểm định ý nghĩa chênh lệch GTTB giữa trước và sau TN 142

DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ

Sơ đồ:

Sơ đồ 1.1. Các thành phần cấu trúc của tính trách nhiệm 21

Sơ đồ 1.2. Sự hình thành tính trách nhiệm của trẻ 5-6 tuổi 24

Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ giữa Quyền và Trách nhiệm của trẻ em 32

Sơ đồ 3.1. Hướng dẫn lựa chọn nội dung, hoạt động trải nghiệm khám phá Quyền và Trách nhiệm 93

Sơ đồ 3.2. Mối quan hệ giữa các biện pháp 118


Biểu đồ:

Biểu đồ 2.1. Trình độ của GVMN tham gia khảo sát 59

Biểu đồ 2.2. Kinh nghiệm của GVMN tham gia khảo sát 59

Biểu đồ 4.1. Biểu đồ so sánh mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi lớp Mon4 trước và sau thực nghiệm 127

Biểu đồ 4.2. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước TN (theo tiêu chí) 129

Biểu đổ 4.3. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước TN (theo %) 129

Biểu đồ 4.4. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi sau thực nghiệm (Theo TC) 135

Biểu đồ 4.5. Mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi sau thực nghiệm (theo %) ...136 Biểu đồ 4.6. So sánh mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước và sau thực

nghiệm (theo TC) 140

Biều đồ 4.7. So sánh tỉ lệ % trẻ đạt các mức độ biểu hiện TTN trước và sau thực nghiệm 141

Biểu đồ 4.8 So sánh mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước và sau thực nghiệm theo giới tính 142

Biểu đồ 4.9. So sánh mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi trước và sau thực nghiệm theo khu vực 142

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Từ xưa đến nay, trong mọi thời đại, ở tất cả các nền văn hóa, TTN luôn được coi là phẩm chất quan trọng của con người. Ở phương Đông, quan điểm đạo đức Nho giáo của Khổng Tử đã nói đến chữ “Nghĩa” – Đó là phần việc phải làm về phương diện luân lí và khi đã làm thì “làm vì tinh thần trách nhiệm (nghĩa) chứ không phải có mục đích vụ lợi”. Ở phương Tây, trong các nghiên cứu về giáo dục công dân, Rousseau và I.Kant [20] đã xác định một người công dân vừa có quyền vừa phải có trách nhiệm, ý thức công dân đó là tuân thủ pháp luật, đóng góp, xây dựng cho cộng đồng. Trong thời đại ngày nay, mục tiêu lớn lao của giáo dục đã được xác định là phát triển một thế hệ có trách nhiệm (Generation Responsibility- thế hệ R), một thế hệ của những người được cho là sẽ đảm nhận các cấp độ trách nhiệm xã hội và môi trường lớn hơn nhiều so với trách nhiệm công dân hiện tại [84] và “khắc sâu trách nhiệm phải là mục tiêu tối cao của giáo dục” [71, tr 1]. Vì vậy, giáo dục TTN cho mỗi cá nhân phải được quan tâm ngay từ thơ ấu.

1.2. Giáo dục trách nhiệm là một vấn đề cấp thiết của các nền giáo dục trên toàn thế giới. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc UNESCO đã xác định trách nhiệm là một trong 12 giá trị sống cơ bản định hướng cho hành động của thế hệ trẻ trong thế kỉ 21. Trong các nhà trường, các cấp học ở khắp nơi trên thế giới đã và đang đưa những nội dung giáo dục giá trị này vào chương trình dạy học như là một trong các nội dung học tập bắt buộc và thể hiện trong mục tiêu đào tạo hoặc chuẩn đầu ra của các chương trình giáo dục. Tại Việt Nam, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 đã đưa ra yêu cầu về phẩm chất cần đạt của học sinh, một trong năm phẩm chất đó là trách nhiệm, bao gồm: trách nhiệm với bản thân; trách nhiệm với gia đình, trách nhiệm với nhà trường và xã hội; trách nhiệm với môi trường sống. Điều này đòi hỏi sự thống nhất giữa các cấp học mà giáo dục mầm non được coi là bậc học đầu tiên, đặt nền tảng cho những cấp học tiếp theo trong giáo dục trách nhiệm cho trẻ em.

1.3. Trách nhiệm được hiểu là thực hiện phần đóng góp của mình với khả năng tốt nhất và sẵn sàng nhận lấy/gánh chịu hậu quả của việc mình làm. Một người có trách nhiệm là người biết thế nào là công bằng, tự nhận biết được quyền lợi của mình phù hợp với trách nhiệm mình đảm nhận. Trách nhiệm được hình thành từ rất sớm, khi đứa trẻ bắt đầu có ý thức về bản thân, trẻ thích tự làm việc của mình, thích được khen khi hoàn thành tốt công việc và sợ bị khiển trách khi làm sai việc gì đó. Trẻ cũng thích giúp đỡ những người lớn xung quanh và tỏ ra tự hào nếu được người lớn nhờ giúp đỡ hoặc giao việc. Đến tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi), trẻ đã có khả năng thực hiện trách nhiệm của mình một cách tự giác và hiểu vì sao cần phải làm như

vậy. Đây là thời điểm thuận lợi để giáo dục TTN cho trẻ dựa trên việc hình thành động cơ hành vi xuất phát từ việc hiểu quyền và nghĩa vụ của bản thân. Mặt khác, giai đoạn 5-6 tuổi là giai đoạn chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, khi mà nghĩa vụ học tập bắt buộc phải được thực hiện. Vì vậy, giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi là phù hợp và có nhiều điều kiện thuận lợi rõ rệt.

1.4. Giáo dục mầm non nước ta hiện nay đã quan tâm đến giáo dục TTN cho trẻ. Điều này thể hiện ở các chỉ số đánh giá sự phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội của trẻ em 5 tuổi theo Chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi do Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành năm 2010, như: 31- Cố gắng thực hiện công việc đến cùng, 45-sẵn sàng giúp đỡ khi người khác gặp khó khăn, 51- Chấp nhận sự phân công của nhóm bạn và của người lớn, 52- Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đơn giản cùng người khác [3]. Tuy nhiên các hoạt động giáo dục trách nhiệm cho trẻ còn diễn ra lẻ tẻ chưa có hệ thống, chưa có cách tiếp cận cụ thể nào định hướng cho giáo viên trong quá trình giáo dục trách nhiệm cho trẻ. Các giáo viên mầm non vẫn đang thực hiện theo lối truyền thống, kinh nghiệm nên không tránh khỏi việc sử dụng những biện pháp, hình thức giáo dục trách nhiệm có tính cực đoan, áp đặt trẻ. Nếu không có cách thức, biện pháp tác động mang tính tích cực và tôn trọng trẻ em thì giáo dục TTN cho trẻ vẫn chỉ là hình thức giáo dục nhận thức mang tính giáo điều.

1.5. Giáo dục dựa trên Quyền trẻ em là cách tiếp cận nhân văn được đặc biệt coi trọng trong giai đoạn hiện nay. Nó đòi hỏi giáo viên mầm non phải hiểu rõ và tôn trọng quyền của trẻ em trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Đã có nghiên cứu cho thấy rằng giáo viên mầm non đặt quyền của mình cao hơn quyền của trẻ dẫn đến một số hoạt động giáo dục không mang lại được sự hài lòng cho trẻ [69]. Thực tế là giáo viên mầm non chưa hiểu rõ về tiếp cận quyền trẻ em, nguồn tài liệu hướng dẫn cho giáo viên về giáo dục TTN nói chung và giáo dục TTN cho trẻ dựa trên quyền trẻ em nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, cần thiết có những nghiên cứu sâu, khoa học và những hướng dẫn cụ thể về giáo dục TTN cho trẻ mầm non, đặc biệt với trẻ 5-6 tuổi.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục tính trách nhiệm dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn giáo dục TTN dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non, từ đó đề xuất những biện pháp giáo dục TTN cho trẻ, nhằm hình thành và phát triển phẩm chất trách nhiệm của trẻ 5-6 tuổi tốt hơn, góp phần chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu

Quá trình giáo dục TTN dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm

non.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp giáo dục TTN dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm

non.

4. Giả thuyết khoa học

- Trẻ 5-6 tuổi có thể và cần phải thực hiện trách nhiệm với bản thân, với mọi người và với môi trường xung quanh, nhưng trong thực tế, TTN của trẻ còn hạn chế do nhiều nguyên nhân, trong đó có liên quan đến biện pháp giáo dục trẻ.

- Nếu xây dựng được các biện pháp giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng tạo môi trường tôn trọng trẻ em thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với khả năng và đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của trẻ, đồng thời trao quyền cho trẻ, thì TTN của trẻ sẽ ngày càng tốt hơn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non dựa trên quyền trẻ em

5.2. Nghiên cứu thực trạng giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non dựa trên quyền trẻ em

5.3. Đề xuất một số biện pháp giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non dựa trên quyền trẻ em

5.4. Thực nghiệm các biện pháp giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non dựa trên quyền trẻ em

6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

6.1. Về nội dung nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu TTN của trẻ đối với bản thân; với mọi người (cha mẹ/người nuôi dưỡng, cô giáo, các bạn) và môi trường xung quanh (đồ vật, động vật, thực vật, không gian sống và học tập của trẻ ở nhà trường và gia đình); sử dụng các hoạt động giáo dục ở trường mầm non: HĐ học, HĐ chơi, HĐ lao động để GDTTN cho trẻ do các hoạt động này được lặp đi lặp lại thường xuyên, hàng ngày.

6.2. Về khách thể khảo sát:

- Khảo sát 135 trẻ 5-6 tuổi, 120 GV và 135 PH, ở Hà Nội và Nam Định.

6.3. Về địa điểm, thời gian nghiên cứu thực nghiệm

* Khảo sát thực trạng: từ 15/5/2020 đến 1/6/2020 tại trường MN01, MN02 (Hà Nội), và MN05 (Nam Định).

* Thực nghiệm:

- Thực nghiệm thăm dò: từ 1/6/2020 đến 14/8/2020 tại MN01

- Thực nghiệm chính thức: từ 17/8/2020 đến 31/12/2020 tại ba trường MN trên.

7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

7.1. Cách tiếp cận

7.1.1. Tiếp cận dựa trên Quyền trẻ em

Tiếp cận dựa trên Quyền trẻ em là một khung khái niệm cho quá trình phát triển con người dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế về Quyền trẻ em một cách chuẩn mực và được định hướng hoạt động nhằm thúc đẩy, bảo vệ và thực hiện các Quyền con người của trẻ em. Cách tiếp cận này nhấn mạnh sự cần thiết của một cách tiếp cận toàn diện đối với giáo dục, phản ánh tính phổ biến và không thể phân chia của tất cả các quyền con người, trọng tâm là giải quyết ba khía cạnh: Quyền được giáo dục (Giáo dục trong tất cả các giai đoạn lứa tuổi MN và sau này, tính sẵn có và khả năng tiếp cận giáo dục, bình đẳng về cơ hội); Quyền đối với chất lượng giáo dục (Chương trình giảng dạy rộng rãi và phù hợp; học tập và đánh giá dựa trên quyền, môi trường thân thiện với trẻ em, an toàn và lành mạnh); Quyền được tôn trọng trong môi trường học tập (Tôn trọng danh tính, tôn trọng quyền tham gia, tôn trọng sự chính trực) [102, tr.27-28]. Do vậy, giáo dục TTN dựa trên QTE phải xác định các nguyên nhân gốc rễ các vấn đề của trẻ em và trao quyền cho trẻ em, thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của trẻ. Từ đó, tạo ra sự phát triển mới về nhận thức, thái độ, hành vi có trách nhiệm ở mỗi cá nhân trẻ em, dựa trên việc giúp trẻ giải quyết các mâu thuẫn nội tại đang diễn ra bên trong, như mâu thuẫn giữa làm vì sợ trách phạt hay làm vì đó là trách nhiệm cần phải thực hiện, mâu thuẫn giữa Quyền và Trách nhiệm, mâu thuẫn giữa Quyền của trẻ với Quyền của người khác.

7.1.2. Tiếp cận lịch sử, xã hội

Tiếp cận lịch sử, xã hội đòi hỏi việc nghiên cứu và triển khai quá trình GDTTN cho trẻ 5-6 tuổi phải dựa trên bối cảnh lịch sử - xã hội thực tế ở đất nước, địa phương, gia đình nơi trẻ sống. Ở mỗi hoàn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể đều tồn tại hệ giá trị nhất định mà con người cho là có ý nghĩa, định hướng cho hành động của họ, trong đó trách nhiệm là một trong những giá trị được con người đề cao. Tuy nhiên trong mỗi thời đại, phạm trù trách nhiệm cũng có sự biến đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của con người, chuyển từ quan điểm trách nhiệm là nghĩa vụ đạo đức sang quan điểm trách nhiệm vừa là nghĩa vụ đạo đức, vừa là nghĩa vụ pháp lý. Khi đó, xã hội đòi hỏi cá nhân thực hiện trách nhiệm, đồng thời phải đáp ứng Quyền của họ theo đúng quy định của pháp luật.

7.1.3. Tiếp cận giá trị

Giá trị là cái mà con người cho là quan trọng, định hướng cho hành động của con người. Tiếp cận giá trị (Value-Based Education Approach) được hiểu là một phần của giáo dục phải truyền đạt những giá trị tinh thần, đạo đức, văn hóa, xã hội thiết yếu cho trẻ em, cần thiết cho sự phát triển toàn diện của chúng và chuẩn bị cho chúng trở thành một con người hoàn chỉnh. Tiếp cận giá trị góp phần quan trọng xây dựng nên tính cách và cần thiết cho sự phát triển nhân cách của một cá nhân, bao gồm sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, nghi thức và hành vi xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, v.v. [94]. Tiếp cận giá trị đòi hỏi nhà giáo dục tạo ra một môi trường học tập mà trong đó giáo viên và người học tôn trọng các giá trị chung và các giá trị riêng của mỗi cá nhân, bao gồm cả môi trường ngôn ngữ, nhằm giúp người học có hiểu biết và hành động được định hướng bởi các giá trị đó. Trách nhiệm là một giá trị, do vậy, GDTTN cho trẻ phải coi trọng hình thành nhận thức, thái độ và hành vi có trách nhiệm.

7.1.3. Tiếp cận hoạt động

Hoạt động là con đường cơ bản để hình thành và phát triển tâm lí con người, đồng thời là nơi bộc lộ rõ nhất khả năng tâm lí của con người. Theo đó, TTN là một phẩm chất tâm lí của con người, cũng được hình thành, phát triển và bộc lộ thông qua hoạt động. Do vậy, hoạt động vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để giáo dục TTN cho trẻ mầm non. Để giáo dục trách nhiệm cho trẻ một cách hiệu quả, cần quan tâm tới việc tổ chức các hoạt động thực tiễn để trẻ trải nghiệm và kiểm nghiệm chính việc thực hiện trách nhiệm của mình và hình thành thái độ tích cực cũng như có nhận thức đúng về hành vi trách nhiệm.

7.1.4. Tiếp cận cá nhân

Tiếp cận cá nhân là một cách tiếp cận giáo dục coi người học ở vị trí là chủ thể của quá trình học tập, được lựa chọn, phát triển, tự quyết định và tự nhận thức dựa trên các tác động sư phạm hỗ trợ của giáo viên. Tiếp cận cá nhân xem xét các yếu tố bên ngoài và bên trong của mỗi cá nhân có ảnh hưởng đến quá trình phát triển của chính họ. Các yếu tố bên trong bao gồm đặc điểm nhận thức, sở thích, động cơ và nhu cầu, tình trạng cảm xúc và thể chất của cá nhân. Các yếu tố bên ngoài bao gồm bất kỳ ảnh hưởng môi trường nào tác động tới cá nhân. Vì vậy, giáo dục phải tập trung vào việc tạo ra các điều kiện để người học tự thể hiện nhân cách với việc bắt buộc phải đạt được các mục tiêu học tập đã đặt ra [52, tr 261].Trong GDTTN, tiếp cận cá nhân đòi hỏi phải tạo ra được động lực thôi thúc hành động của mỗi cá nhân, động lực đó sẽ phụ thuộc vào: mức độ quan tâm của cá nhân đối với việc phải làm, cảm xúc tích cực trong quá trình thực hiện công việc, cảm giác thành công, hứng thú nhận thức, kết quả tích cực. Đồng thời cho phép giáo viên tạo ra một môi trường

học tập, vui chơi kích thích sự quan tâm, hứng thú của trẻ, đánh giá đúng những nỗ lực và khả năng của trẻ, tác động kịp thời với từng cá nhân dựa trên những biểu hiện quan sát được về nhận thức, hành động và thái độ trách nhiệm của trẻ ở trường mầm non và qua phản hồi của gia đình.

7.2. Phương pháp nghiên cứu

7.2.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận

7.2.1.1. Phương pháp phân tích tổng hợp

Sưu tầm, phân tích, tổng hợp các tài liệu nghiên cứu liên quan đến giáo dục trách nhiệm cho trẻ em từ xưa đến nay nhằm phác họa bức tranh chung về tình hình nghiên cứu TTN của trẻ em trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tìm ra bản chất của quá trình giáo dục TTN, những cơ sở khoa học để xây dựng biện pháp giáo dục trách nhiệm.


7.2.1.2. Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa lí luận

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được hệ thống hóa, khái quát hóa thành những quan điểm chung, những vấn đề được xem là bản chất, cốt lõi nhằm xác định cơ sở để xây dựng khung lý thuyết, khảo sát thực trạng, đề xuất và thực nghiệm biện pháp giáo dục TTN cho trẻ em.

7.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.2.1. Phương pháp quan sát

Tiến hành quan sát trẻ trong các hoạt động một ngày ở trường mầm non, ghi chép để đánh giá về: hành vi và thái độ của trẻ đối với việc mình cần phải làm. Đồng thời quan sát cách tương tác của giáo viên với trẻ.

Việc quan sát cũng được tiến hành trong ba gia đình có con 5-6 tuổi.

7.2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Xây dựng bảng hỏi dành cho giáo viên và phụ huynh nhằm tìm hiểu nhận thức, kinh nghiệm của họ trong việc giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi. Bảng hỏi được phát cho 135 PH và 120 GVMN.

7.2.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu

Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm với các chuyên gia và giáo viên ở từng địa bàn nghiên cứu, đồng thời tiến hành phỏng vấn sâu với giáo viên, phụ huynh và trẻ nhằm làm rõ đặc điểm TTN từng cá nhân trẻ và cách thức, biện pháp giáo dục trách nhiệm của phụ huynh và giáo viên.

7.2.2.4. Phương pháp chuyên gia

Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học: giáo dục trẻ em, tâm lí trẻ em, sinh lí trẻ em…, thông qua các buổi đàm thoại, xêmina từ đó tiếp thu những kinh nghiệm, sự phân tích của họ để làm rõ hơn các vấn đề nghiên

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022