Kiểm Tra, Giám Sát Chặt Chẽ Các Khâu Trong Hoạt Động Tín Dụng


đưa vào áp dụng bắt buộc trong phân tích, đánh giá đối với tất cả các dự án mới và khách hàng đang có dư nợ tín dụng.

Chuyên môn hóa trong khâu nhận hồ sơ và phân tích:

Khâu hướng dẫn và thu nhận hồ sơ nên giao cho một vài nhân viên thuộc bộ phận tín dụng đảm trách tùy theo đặc điểm của từng dự án. Điều này giúp giảm áp lực công việc thủ tục cho cán bộ tín dụng, đồng thời giúp khách hàng lập hồ sơ chính xác hơn, tránh phải lập nhiều lần, gây mất thời gian cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng.

Thành lập phòng chuyên về phân tích theo lĩnh vực ngành nghề, hỗ trợ cho cán bộ tín dụng trong khâu phân tích. Hoặc với mỗi lĩnh vực thì có thể để cho một nhóm cán bộ chuyên đảm nhận để phân tích. Sau khi thu nhận hồ sơ cán bộ tín dụng sẽ chuyển cho bộ phận hoặc cán bộ phân tích theo từng ngành. Cán bộ tín dụng kết hợp với kết quả phân tích thuộc thẩm quyền của mình với kết quả của bộ phận hay cán bộ phân tích để lập tờ trình bộ phận ra quyết định.

Hoạt động chuyên môn hóa trên sẽ giúp Sở tiết kiệm được chi phí cũng như thời gian phân tích, hạn chế những rủi ro mang tính chủ quan của cán bộ tín dụng, đồng thời giúp cán bộ tín dụng giảm được áp lực nặng nhọc trong công việc phân tích, còn cán bộ phân tích lại có thêm điều kiện để nghiên cứu kiến thức chuyên ngành được phân công, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

Tiếp tục đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp (từng ngành, lĩnh vực) theo điểm số để đưa ra quyết định tài trợ:

Việc đánh giá, xếp loại doanh nghiệp nói chung đã khó nhưng việc đánh giá và xếp loại doanh nghiệp nhà nước theo từng ngành nghề còn khó hơn: sẽ phải xây dựng hệ thống các yếu tố cần phân tích đối với từng loại doanh nghiệp (doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp khai thác tài nguyên...), hệ thống thang điểm chuẩn phù hợp, kết quả điểm quyết định ngân hàng có cho vay hay không, mức điểm quyết định mức cho vay, quyết định lãi suất cho vay..., những việc này đòi hỏi cần có thời gian, nhân lực. Tuy nhiên nếu có thể làm được điều này thì lợi ích đem lại là rất lớn: giảm thiểu rủi


ro, giảm thiểu nợ quá hạn, tăng lơi nhuận của hoạt động tín dụng trung và dài hạn...tức là làm chất lượng tín dụng tăng lên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

Trong bước cuối cùng - thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng mới, nếu khách hàng không trả được nợ thì Sở cần tìm hiểu thật kỹ nguyên nhân để ra những quyết định mới: thu nợ, phong tỏa và bán tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...hay tiếp tục tài trợ cho khách hàng với sự ưu đãi về lãi suất, gia hạn nợ...Việc này cũng rất quan trọng, nó vừa mang lại lợi ích cho hoạt động của SGD, lại vừa đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì nếu SGD có thể “cứu vãn” được hoạt động của các doanh nghiệp thì họ có thể tiếp tục sản xuất, cán bộ trong doanh nghiệp sẽ tiếp tục có việc làm... Điều này đóng góp giải quyết một trong những vấn để bức xúc của xã hội là thất nghiệp.

Cuối cùng, trong quá trình phân tích tín dụng, các cán bộ tín dụng cần phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của quá trình này, phải ý thức được rằng mỗi bước là một mắt xích của một dây truyền mà nếu mắt xích nào đó bị hỏng thì toàn bộ dây truyền sẽ không hoạt động tốt được.

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 8

Sổ tay tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng: nó đưa ra khuôn khổ các chính sách, nguyên tắc về hoạt động tín dụng, đồng thời quy định những thủ tục, trình tự cho vay nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng...chính vì vai trò quan trọng đó mà SGD cần bổ sung, chỉnh sửa sổ tay tín dụng thường xuyên hơn để phù hợp với yêu cầu quản lý và điều hành về tín dụng.


3.2.3. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các khâu trong hoạt động tín dụng

Đối với mỗi ngân hàng, tín dụng luôn là hoạt động phong phú, đa dạng nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn nhất. Bởi vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng thì cần phải luôn kiểm tra, giám sát các khâu trong hoạt động tín dụng.

SGD nên thành lập đoàn kiểm tra, xây dựng chương trình kiểm tra, thu thập các thông tin và sử dụng triệt để sự hữu ích của hệ thống máy vi tính để phục vụ công tác kiểm tra.


Sau bước kiểm tra này, cần thiết phải thực hiện việc kiểm tra, xem xét chất lượng đợt kiểm tra để rút kinh nghiệm cho những đợt kiểm tra sau.

Công việc kiểm tra cần được lập kế hoạch, và phải lập đề cương kiểm tra (với nội dung hoặc chi tiết hoặc tóm tắt). Tuy nhiên, SGD cũng nên tiến hành thường xuyên hơn các đợt kiểm tra bất chợt để tránh tình trạng có sự chuẩn bị sẵn của các cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra đột suất này sẽ đem lại hiệu quả cao hơn cho công tác kiểm tra.


3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng: phát hiện những sai sót trong những mặt nghiệp vụ, kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa, góp phần hạn chế những rủi ro, đảm bảo kinh doanh an toàn, giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, tạo tiền đề để SGD phát triển bền vững.

Trong thời gian qua, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ đã chứng minh được tính thiết yếu không thể thiếu của nó trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng còn không ít những tồn tại cần khắc phục nhanh chóng để nâng cao chất lượng tín dụng. Giải pháp cho một số mặt còn tồn tại là:

Tiếp tục tăng cường cho bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ, bổ nhiệm kiểm tra viên cho các chi nhánh của Sở, hoàn chỉnh mô hình bộ máy tổ chức và thực hiện quy chế tổ chức và họat động cho hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo luật các tổ chức tín dụng.

Các văn bản đã có về quy định, quy trình kiểm tra, kiểm toán cần được tiếp tục hoàn thiện, cần phổ biến để kiểm tra viên ý thức hơn nữa nhiệm vụ của mình.

Công tác này cần phải được tiến hành ở mọi cấp, mọi phòng ban, trong mọi thao tác nghiệp vụ, đồng thời với nó là phải đổi mới phương thức kiểm tra một cách toàn diện, sâu sắc cả về mặt chất và mặt lượng.

Tiếp tục chỉ đạo các chi nhánh của Sở trong việc sửa chữa những sai sót sau thanh tra, kiểm tra, tránh việc lặp lại những thiếu sót, sai lầm đó.


Có cán bộ chuyên môn tiến hành kiểm tra, kiểm soát, tránh tình trạng kiêm nhiệm chức vụ vì có thể có những ý kiến chủ quan trong đánh giá.

Xúc tiến các chi nhánh của SGD chấp hành tốt về thời gian gửi báo cáo hàng tháng, quý năm về SGD.

Giải quyết triệt để tình trạng: kiểm tra theo vụ việc, nặng về kiểm tra chứng từ kế toán, chưa quan tâm đi sâu kiểm tra các mặt hoạt động khác, thụ động kiểm tra theo chỉ đạo của cấp trên.

Chủ động hơn nữa trong việc tham mưu cho lãnh đạo các cấp trong việc hoạch định và thực thi chiến lược kinh doanh dài hạn.

Triển khai giải quyết kịp thời những kiến nghị sau kiểm tra, kiểm soát và những văn bản chỉ đạo để nhanh chóng khắc phục, giải quyết những sai sót.


3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ trong ngân hàng

Tiến hành tuyển mộ, tuyển chọn một cách công khai, bình đẳng.

Tuyển mộ là quá trình thu hút những người xin việc có trình độ từ lược lượng lao động xã hội và lực lượng lao động bên trong tổ chức. Có thể sử dụng nhiều cách để có được nguồn tuyển mộ phong phú: Thông qua sự giới thiệu của cán bộ trong SGD; Cử cán bộ của phòng nhân sự tới tuyển mộ trực tiếp tại các trường đại học. Tuy nhiên với hai cách này thì có thể sẽ có sự không công bằng vì các cán bộ đi tuyển mộ có thể tiến cử những người là con em, họ hàng của họ. Vì vậy, theo em Sở nên sử dụng các phương thức sau để tuyển mộ:

Thu hút nguồn tuyển mộ thông qua quảng cáo trên các phương tiện thông tin: báo, tạp chí, trên các trang Wet của Sở, trên tivi. Phương pháp này cần chú ý nội dung quảng cáo để người xin việc nhanh chóng liên lạc với SGD.

Tuyển mộ thông qua các hội chợ việc làm: phương pháp này cho phép các ứng cử viên và các nhà tuyển dụng tiếp xúc trực tiếp với nhau, mở rộng khả năng lựa chọn với quy mô lớn hơn.


Sau khi đã tuyển mộ là quá trình tuyển chọn. SGD nên đưa ra các bài trắc nghiệm để kiểm tra về lịch sử làm việc, trình độ của người xin việc. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập nên việc các nhân viên trong Sở sử dụng được ngôn ngữ giao tiếp quốc tế (Tiếng Anh) là rất quan trọng, tuy nhiên, quan trọng hơn cả vẫn là trình độ nghiệp vụ, khả năng tiếp cận với thông tin, và sự nhanh nhạy trong việc xử lý các thông tin thu nhận được. Do đó trong các bài thi trắc nghiệm kiến thức, nên đánh hệ số cao cho phần nghiệp vụ, tin học và bài thi tiếng Anh theo quan điểm của em nên thiết kế theo cấu trúc thi GMAT.

Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình đào tạo để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Sở.

Có thể áp dụng các loại hình đào tạo như: Đào tạo tại Hội sở chính NH ĐT&PTVN; đào tạo tại các trường Đại học, các Học viện; Đào tạo, bồi dưỡng tại nước ngoài.

Đặc biệt, để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, SGD nên quan tâm hơn nữa trong việc cử cán bộ đi học nghiệp vụ tại nước ngoài, có nhiều hình thức: chọn cán bộ đi học, đào tạo ngắn ngày, dài ngày ở nước ngoài; gửi nhân viên có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ đi thực tập dài ngày ở các ngân hàng nước ngoài; chọn cán bộ đi nghiên cứu sinh, học cao học ở nước ngoài; cử cán bộ đi tham quan, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài... để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển trong tương lai.

Tạo điều kiện vật chất, tinh thần và các động lực nhằm khuyến khích cán bộ.

Cần tạo điều kiện cho cả cán bộ đang được đào tạo và đang làm việc. Những cán bộ nào có kết quả lao động tốt nên được chọn đi tham quan, khảo sát, học tập ở nước ngoài, được khen thưởng trước toàn bộ nhân viên trong Sở, được thăng chức...Riêng với những cán bộ đang được đào tạo, để chất lượng đào tạo tốt, nên thực hiện thường xuyên các công việc:

Tổ chức kiểm tra nghiêm túc trong các khóa học theo định kỳ. Có như vậy mới tạo ra môi trường học tập nghiêm túc cho các học viên, tạo nên tính khách quan trong quá trình đào tạo và góp phần tạo nên sự thi đua học tập giữa các học viên.


Khen thưởng cho những học viên có điểm số cao, đây là yếu tố tạo động lực cho người học. Lấy kết quả học tập làm một trong những tiêu chuẩn để xét điểm thi đua hàng năm và xếp lương kinh doanh.

Chấn chỉnh, kỷ luật kịp thời, công minh những cán bộ có hành vi trái với các quy định, nội quy của ngân hàng hoặc có hành vi sai trái gây thiệt hại cho ngân hàng.

Bên cạnh những hình thức nhằm khuyến khích học tập, tạo niềm say mê trong học tập, tạo kết quả học tập và làm việc tốt thì Sở giao dịch cần xử phạt nghiêm minh các hành vi sai trái. Tuy nhiên, tùy mức độ sai trái mà có những biện pháp kỷ luật khác nhau. Để kỷ luật có hiệu quả thì SGD cần tuân thủ theo những nguyên tắc:.

Phải thông tin đầy đủ và kịp thời các điều khoản của kỷ luật lao động đến mọi cán bộ nhằm khuyến khích ý thức tốt, tự thực hiện giữ gìn kỷ luật trong từng cán bộ và kỷ luật phòng, ban.

Trước khi tiến hành kỷ luật, cần phải tiến hành điều tra, xác minh được các vi phạm, mức độ vi phạm và các hình thức kỷ luật tương ứng đã được quy định và thông báo cho cán bộ vi phạm biết.


3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại các DNNN, đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, mạnh dạn giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, giải quyết tình trạng nợ đọng ngân sách xây dựng các công trình cho các đơn vị thi công. Kiến nghị cụ thể:

Tiến hành cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN (kể cả các tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp có quy mô lớn), thu hẹp tối đa số doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước đầu tư 100% vốn, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: an ninh, quốc phòng, điện lực...

Gắn chặt tiến trình cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN với thị trường vốn nhằm mục đích khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội, nâng cao chất


lượng hoạt động của các doanh nghiệp; với đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Trong tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp sẽ có hiện tượng dư thừa lao động, để giải quyết tình trạng này thì Nhà nước cần điều chỉnh chính sách đối với lao động dôi dư ở các doanh nghiệp, cần bổ sung quy định về tỷ lệ lao động tối đa được áp dụng chính sách lao động dôi dư.

Nhằm tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng hoạt động kinh doanh, đồng thời nhằm mục đích tạo ra một cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp thì Nhà nước nên bỏ quy định về tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ.

Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp: hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất ...để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa; đồng thời Nhà nước cần xây dựng một hệ thống văn bản, nghị định không mâu thuẫn, chồng chéo nhau.

Nhà nước cần ban hành cơ chế tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp, Nhà nước chỉ bao cấp vốn điều lệ cho những DNNN cần nắm giữ 100% vốn, có như thế doanh nghiệp mới ý thức và cố gắng hơn trong hoạt động, tránh tình trạng ỷ nại vào Nhà nước. Thay vì hỗ trợ trực tiếp, Chính phủ có thể hỗ trợ một cách gián tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu vào, nâng cao tính cạnh tranh.

Đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng: Các loại hình doanh nghiệp sẽ được nhà nước có chính sách, chế độ để giám sát theo các chỉ tiêu tài chính, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về tài chính, hệ thống đánh giá rủi ro qua các công cụ kiểm toán, kế toán... được công khai minh bạch và được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Thống nhất quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp theo hướng xóa bỏ sự chia cắt về quyền


sở hữu doanh nghiệp giữa các Bộ, ngành, địa phương. Nhà nước giữ vai trò là nhà đầu tư vốn thống nhất thông qua một tổ chức đầu tư vốn trung gian bằng việc thành lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.

Tạo môi trường kinh tế ổn định: trong điều kiện kinh tế phát triển, xã hội ổn định sẽ là điều kiện tốt cho tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN phát triển vì khi đó doanh nghiệp sẽ có như cầu vốn lớn hơn để sản xuất kinh doanh, có khả nợ tốt hơn. Thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển của kinh tế - xã hội trong dài hạn thì chính phủ sẽ giúp cho chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, các ngân hàng ổn định, phù hợp với chiến lược đó.

Chính phủ cần có sự hỗ trợ triệt để và có các giải pháp hiệu quả hơn để các ngân hàng thương mại có thể thực hiện được việc tái cơ cấu: có ý kiến phản hồi kịp thời đối với các kiến nghị, đề xuất của các ngân hàng thương mại, với các khoản nợ tồn đọng cần sử dụng ngân sách nhà nước để chuyển vốn và xóa.


3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước

Ngân hàng Nhà nước, với vai trò điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế, có tác động rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại quốc doanh trong hoạt động tín dụng nói chung, trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN nói riêng thì Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần có các biện pháp, chính sách:

Trước tiên, NHNN cần tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản pháp luật, các quy định, tạo ra sự thống nhất giữa chúng. Bên cạnh đó là việc nghiên cứu, bổ sung quy chế để giải quyết kịp thời, loại bỏ tình trạng một doanh nghiệp vay vốn từ nhiều ngân hàng với cùng một dự án xin vay.

NHNN cần triển khai quyết liệt, bắt tay cùng làm và tháo gỡ những vướng mắc với các ngân hàng thương mại, đồng thời tăng cường quan hệ đối ngoại để tranh thủ sự trợ giúp có hiệu quả của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.

Xem tất cả 81 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí