vận động, huy động sự đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và dân sinh theo tiêu chí xây dựng NTM.
Đảng uỷ HĐND xã ra nghị quyết chuyên đề. UBND xã có kế hoạch triển khai thực hiện và nhận được sự đồng thuận của nhân dân địa phương, phong trào xây dựng NTM của các xóm được nhân dân hưởng ứng tích cực,
nhiều xóm, khu dân cư có những sáng tạo trong thực hiện. Quá trình tổ
chức thực hiện đảm bảo theo pháp lệnh dân chủ, nhân dân bàn bạc, tham gia và giám sát việc thực hiện từng công việc. Trong năm 2014 xã thu đóng góp kinh phí của nhân dân để cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông liên xóm tính đến ngày 30/12/2014 đã hoàn thành 98% kế hoạch năm và tổ chức thi công được 1.820m đường bê tông đắp mặt bằng các tuyến đường theo kế hoạch.
Ban chỉ
đạo xây dựng NTM của xã đưa ra cơ
chế
hỗ trợ
khuyến
khích về
kinh phí để
động viên làm đường giao thông đã chi hỗ
trợ
718.999.000 cho các xóm đã làm trong năm 2013, năm 2014 tiếp tục có chính sách hỗ trợ.
Những tồn tại, hạn chế:
+ Lĩnh vực phát triển kinh tế:
Do bị tác động của khủng hoảng kinh tế nên trong năm 2014 nói riêng và trong những năm vừa qua nói chung một số ngành nghề tại địa phương
sản xuất giảm, tỷ tiêu.
trọng thu nhập từ
ngành nghề, dịch vụ
không đạt chỉ
Sản xuất nông nghiệp kể cả trồng trọt, chăn nuôi đều gặp khó khăn, năng suất lúa đạt 96% so với kế hoạch, thấp hơn năm 2013 là 6.97tạ/ha
Diện tích cây vụ đông không đạt chỉ tiêu, các mô hình sản xuất chưa có tính thuyết phục nên chưa nhân ra được diện rộng. Chăn nuôi lợn, tỷ lệ tiêm phòng thấp đạt 43% so với kế hoạch cả năm, nhiều đơn vị tỷ lệ tiêm
phòng gia súc quá thấp dẫn tới dịch bệnh tai xanh bùng phát tại địa phương.
ở đàn lợn phát sinh và
chế
Hoạt động của ban nông nghiệp HTX nông nghiệp dịch vụ còn hạn trong chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất và tổ chức các hoạt động dịch vụ.
Kết quả hoạt động các dịch vụ vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp thấp
chưa đa dạng và chưa làm chủ
được thị
trường, điều hành dịch vụ
thuỷ
nông chưa kiên quyết nhất là xây dựng kế hoạch và đôn đốc thực hiện nạo vét các hệ thống mương cấp III, đắp đường nội đồng theo quy hoạch và đề án xây dựng NTM. Tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ cơ sở chưa tích cực đưa ra nhứng giải pháp huy động sự đóng góp kinh phí của nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo tiêu chí xây dựng NTM. Việc
thực hiện pháp lệnh dân chủ ở
một số
xóm chưa nghiêm, chưa thường
xuyên dẫn đến có sai phạm nhưng chậm được phát hiện làm giảm lòng tin của nhân dân.
+ Trong lĩnh vực văn hoá xã hội:
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật còn ít, chất lượng nội dung tin bài hạn chế, phong trào thi đua xây dựng “đời sống văn hoá ở khu dân cư” hiệu quả còn mức độ thấp, ý thức vệ sinh môi trường trong nhân dân, công tác tuyên truyền và thực hiện còn yếu, dẫn đến rác thải sinh hoạt vẫn còn bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, tình trạng nhiều hộ nhân dân vi phạm lề đường giao thông nhất là trên trục đường 56 và đường Thốp.
Trách nhiệm quản lý của ban giám hiệu một số trường còn hạn chế dẫn tới phụ huynh học sinh còn băn khoăn. Tỷ lệ học sinh hết chương trình THCS vào lớp 10 thấp đạt 77,9% (thấp hơn bình quân ngang huyện 6,1%)
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình: Tỷ lệ người sinh con thứ 3 trở lên còn cao là 22.1% , hoạt động chuyên môn ở một số lĩnh vực còn hạn
chế, thời gian giải quyết kéo dài, nhân dân góp ý nhưng mức độ biến còn chậm.
chuyển
Tóm lại: Năm 2014 triển khai thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện có nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng từ xã đến các đơn vị và sự lỗ lực của đội ngũ cán bộ cùng nhân dân địa phương đã phấn
đấu hoàn thành cơ
bản những chỉ
tiêu phát triển KTXH. Các công trình
phúc lợi tiếp tục được đầu tư, nâng cấp. Văn hoá xã hội có bước phát triển, thực hiện tốt chính sách của nhà nước và an sinh xã hội đảm bảo giữ
vững công tác an ninh chính trị
và trật tự
an toàn xã hội góp phần hoàn
thành các chỉ tiêu năm 2014 làm tiền đề để phấn đấu thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu trong năm 2015 và những năm tiếp theo.
4.3. Một số tác động của mô hình nông thôn mới tại xã Trực Đại
Về kinh tế
Sau khi áp dụng xây dựng mô hình nông thôn mới, kinh tế xã có những thay đổi đáng kể. Tổng giá trị kinh tế của xã sau 4 năm áp dụng xây dựng mô hình nông thôn mới tăng mạnh, năm 2014 tăng 19 % so với năm 2013; cụ thể tổng giá trị sản xuất năm 2013 là 304.369 triệu đồng đã tăng lên 362.199 triệu đồng.
Thu nhập bình quân/người/năm cũng có xu hướng tăng đáng kể
với tốc độ tăng trưởng 16% trong đó thu nhập bình quân đầu người năm
2013 là 12,67 triệu đồng đến cuối năm 2014 đã tăng lên mức 14,7 triệu đồng. lương thực bình quân đầu người cũng có xu hướng tăng lên với tốc độ 17%. Qua những so sánh trên ta thấy việc xây dựng mô hình nông thôn mới rất phù hợp với sự phát triển của xã Trực Đại và nhiều nơi khác có điều kiện tương đương.
Bảng 4.10 Tác động của mô hình nông thôn mới đến phát triển kinh tế
Đơn vị tính | Hiện trạng 2013 | Thực hiện 2014 | So sánh 2014/2013 | |
Tổng giá trị sản xuất | Triệu | 304.369 | 362.199 | 19% |
Thu nhập BQ/người/nă m | Triệu | 12,67 | 14,7 | 16% |
Lương thực BQ/người | kg | 512 | 614 | 17% |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Kinh Phí Trong Xây Dựng Mô Hình Nông Thôn Mới
- Thực Trạng Và Mục Tiêu Xây Dựng Nông Thôn Mới Xã Trực Đại
- Đánh Giá Mức Độ Đạt Được Nhóm Tiêu Chí Kinh Tế Và Tổ Chức Sản Xuất Tiêu Chí 10: Thu Nhập
- Đánh giá kết quả xây dựng nông thôn mới tại xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định - 9
- Đánh giá kết quả xây dựng nông thôn mới tại xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định - 10
Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.
/năm |
Nguồn: Ban thống kê xã
Tác động đến sản xuất nông nghiệp
Xã Trực Đại cơ bản là một xã thuần nông nên sản xuất chủ yếu của xã vấn là trồng lúa nước, thu nhập chủ yếu từ cây lúa. Kể từ khi có chủ trương xây dựng nông thôn mới của Nhà nước đời sống người dân đã từng bước cải thiện rõ rệt. Bà con nông dân đã chủ động đổi mới tư duy
kết hợp sự
phổ
biến kiến thức mới về
khoa học kĩ thuật của cán bộ
khuyến nông nên mạnh dạn chuyển dổi mô hình sản xuất và kết quả thu được khá cao. Xã có hơn 480 ha trồng lúa, và khoảng 80 ha trồng cây cảnh và hoa.
Trong việc đưa giống mới vào sản xuất, một phần có sự hỗ trợ của Nhà nước, nhưng chủ yếu vẫn là sự nỗ lực và tinh thần học hỏi vươn lên làm giàu, vượt khó của người dân địa phương. Với tinh thần làm giàu trên mảnh đất quê hương nhiều người dân đã mạnh dạn vay vốn và học hỏi áp dụng tiến bộ khoa học để thay đổi mô hình sản xuất. Kết quả thu được từ giống lúa mới cũng khá cao từ 2,33 tạ/ sào. Mô hình chăn nuôi với công nghệ mới, sạch sẽ, thông thoáng đã mang lại lợi nhuận lớn cho một số hộ dân làm trang trại.
Ông Phạm Văn Mùi, 52 tuổi, người dân xóm Trung Khuân, xã Trực Đại xây dựng mô hình chăn nuôi lợn tiến tiến chia sẻ: “ Tôi rất biết
ơn sự
quan tâm của Nhà nước đã hỗ
trợ
vốn cho gia đình chúng tôi xây
dựng trang trại chăn nuôi. Thu nhập của gia đình tôi tăng nhanh, hiện nay đã có của ăn của để, con cái được học hành đẩy đủ. Cuộc sống ấm no,
sung túc hơn.” Như vậy mô hình nông thôn mới đã mang lại cho bà con
nông dân một cuộc sống tốt hơn với những cây trồng vật nuôi có giá trị và năng suất cao hơn.
Tác động đến thu nhập người dân.
Mô hình nông thôn mới tại xã Trực Đại đã phát huy được tác động tích cực rất lớn. Nó tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp tạo nên sự đa dạng trong thu nhập của người dân địa phương.
Qua khảo sát điều tra người dân tại các thôn trong xã cho thấy: mọi người dân trong xã đều kết luận là việc áp dụng mô hình NTM trong xã đã nâng cao thu nhập của người dân trong những năm gần đây.
Như trước đây ngoài trồng lúa, người dân không có thêm khảon thu nhập nào, nhưng kể từ khi chủ trương của Nhà nước được áp dụng đã có thêm các khoản thu nhập riêng, như trồng cây thêm vụ, mô hình VAC, cụm công nghiệp, hay trồng hoa màu cây cảnh… nhiều hộ nông dân có thu nhập xấp xỉ 100 triệu đồng/ năm với mô hình chăn nuôi trang trại với động vật có giá trị kinh tế cao.
Anh Nguyễn Văn Hiệp, 28 tuổi, chủ xưởng may mặc Linh Hiệp chia sẻ: “ Xưởng may của tôi có gần 40 nhân viên, tạo công ăn việc làm,
tăng thêm thu nhập cho người dân tại địa phương. Tôi rất biết ơn chính
sách hỗ trợ của Nhà nước cho sự phát triển ngành nghề tại địa phương. Đây thực sự là bước tiến lớn cho sự phát triển kinh tế ở nông thôn”.
Như vậy sự hỗ trợ về vốn và khoa học công nghệ đã giúp tăng
thu nhập cho rất nhiều người dân với những việc làm tăng thu nhập. không chỉ những tên tuổi được nêu ra tạo thêm việc làm cho nông dân mà còn rất nhiều xưởng, nhà máy hay trang trại khác đang hàng ngày tạo công ăn việc làm cho bà con, như xưởng mộc, nghề thủ công…
Về xã hội:
Cùng với những tác động về mặt kinh tế thì mô hình nông thôn mới còn tạo ra tác động to lớn về mặt xã hội. Đó là sự cải thiện về cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi. Hiện nay, cơ sở hạ tầng xã Trực Đại đã cơ bản đáp ứng nhu cầu của người dân, đảm bảo cho sự sản xuất và đời sống nhân dân. Đường làng ngõ xóm được cải thiện, nâng cấp, bê tông hóa giúp việc di chuyển, vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn. Cứng hóa mương
giúp bà con thuận lợi trong việc tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất cây trồng.
Gần đây đời sống người dân đã được nâng cao, và họ bắt đầu
quan tâm hơn đến việc giải trí, thể thao, văn hóa nghệ thuật. Chính vì vậy
àm các nhà văn hóa, trung tâm thể dựng khá nhiều.
Về môi trường:
thao của xã, xóm được cải thiện, xây
Hiện nay vấn đề môi trường nông thôn đang được đặc biệt quan tâm, cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng kèm theo vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng.
Trước kia ý thức bảo vệ môi trường xanh xung quanh, tác động tiêu cực do ô nhiễm môi trường gây ra vẫn chưa được chú ý. Một số hộ
dân đổ
rác còn không đúng nơi quy định, ý thức bảo vệ
đường làng ngõ
xóm của người dân chưa cao, rác thải vứt bừa bãi ra đường đi, hệ thống cống thoát nước và xử lý chất thải chưa được quan tâm. Nước thải tại cụm
công nghiệp làng nghề
vẫn chưa được xử
lý, còn để
chất thải tràn vào
ruộng canh tác của người dân, ảnh hưởng xấu tới năng suất cây trồng.
Kể từ khi chủ trương nông thôn mới được đưa vào thực hiện phần nào đã giải quyết được vấn đề trên. Dưới sự chỉ đạo từ xã đến thôn, quan
tâm đầu tư
cho công tác vệ
sinh môi trường, thu gom rác thải, quy định
điểm đổ rác. Toàn xã thành lập 22 tổ thu gom rác thải đang hoạt động có
hiệu quả nên đường làng, ngõ xóm luôn được sạch sẽ, khang trang. Tuy
nhiên hiện nay tình trạng một số tuyến đường làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, không đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường ở các thôn. Xã đã phối hợp với các cơ quan chức năng cấp trên, ban quản lý cụm công nghiệp tổ chức lập biên bản, cưỡng chế xử lý những công ty, doang nghiệp thải rác công nghiệp và nước thải không đúng nơi quy định làm ảnh hưởng đến nguồn nước và sản xuất nông nghiệp.
Sau hoạt động bê tông hóa đường làng các thôn, kèm theo hệ thống cống rãnh thoát nước được cải tạo góp phần giữ vệ sinh thôn xóm. Năm 2013 toàn xã đã mua 20 xe chở rác với chi phí 60 triệu đồng đã xử lý được phần lớn lượng rác thải sinh hoạt trong xã.
Chia sẻ của bà Phạm Thị Dung, 58 tuổi, người dân xóm Khuân Đông về môi trường làng xóm: “ Tôi nghĩ việc tu sửa đường làng ngõ xóm là rất phù hợp và cần thiết. Vừa giúp bà con làm ăn thuận tiện, vừa giúp môi trường trong xóm xanh, sạch. Tôi rất hài lòng với chính sách của Đảng và Nhà nước”.
Các hoạt động được người dân hưởng ứng rất nhiệt tình và cả sức người và của cải, gớp phần giữ vệ sinh môi trường, tạo vẻ đẹp cho cảnh quan thôn, xóm. Khi điều tra các hộ nông dân về tác động của chủ trương xây dựng nông thôn mới đến môi trường, 100% hộ nông dân đều đồng quan điểm kết luận: “ mô hình nông thôn mới đã làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và làm xóm làng đẹp hơn”.
Tính tự lập của cộng đồng dân cư:
Người dân có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động phát triển ở nông thôn. Sự phát triển của mỗi cá nhân có tác động to lớn đến sự phát triển chung của cộng đồng. Vì vậy mỗi người dân cần phải nâng cao ý thức và phát huy tính tự lập của bản thân. Mô hình nông thôn mới đã tiếp cận theo hướng từ dưới lên. Vì vậy đã tạo nên cơ chế dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra. Nhà nước và các tổ chức khác có nhiệm vụ hỗ trợ vốn, kỹ thuật và tạo điều kiện cho họ thực hiện.
Qua điều tra cho thấy 100% hộ dân đều tham gia đóng góp tiền và công sức vào các hoạt động chung của xóm thôn. Phần lớn các hộ dân trực tiếp tham gia lao động trong các hoạt động. Chứng tỏ công sức người dân là rất quan trọng trong việc xây dựng mô hình nông thôn mới. Tính tự lập của người dân đã phát huy tong tất cả các hoạt động, điều này tạo nên sự phát triển bền vững của mô hình nông thôn mới với xã Trực Đại.
4.4. Phân tích cơ hội và thách thức trong công tác xây dựng nông thôn mới xã Trực Đại
Sử dụng công cụ phân tích SWOT để thu thập thông tin từ đó rút ra
những yếu tố
thuận lợi và cản trở
nhằm thực hiện tốt chủ
trương xây
dựng nông thôn mới tại xã. Kết quả được thể hiện tại bảng 3.11.
4.5 Định hướng nâng cao hiệu quả mô hình nông thôn mới tại xã
Nâng cao vai trò người dân trong mô hình xây dựng nông thôn mới theo phương châm dựa vào nội lực và cộng đồng địa phương. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần làm động lực để phát huy sự đóng góp của người dân.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để vận động người dân hưởng ứng nhiệt tình trong việc tham gia chương trình.
Phát triển con người, xây dựng nếp sống văn hóa trong cộng đồng nông thôn, nâng cao trình độ dân trí, trình độ KHKT người dân.
Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của nông dân.
Phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng cả yêu cầu về chất lượng và số lượng để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của người dân ngày càng tốt hơn.
Xây dựng môi trường xanh, sạch đẹp, công tác môi trường nâng cao. Đẩy mạnh tuyên truyền cải thiện thói quen sử dụng, xử lý nước và giáo dục nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường. đồi với các làng nghề triển khai các đề án xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, thực hiện quy hoạch
khu cọm công nghiệp tách ra khỏi khu dân cư…cài thiện vấn đề trường, nâng cao chất lượng đời sống người dân.
môi
Xã Trực Đại cần triển khai tuyên truyền để mỗi người dân hiểu rõ tầm quan trọng của xây dựng mô hình nông thôn mới. Nhằm xây dựng xã giàu mạnh, văn minh góp phần xây dựng đất nước phát triển.