Về Điều Kiện Cơ Sở Vật Chất, Năng Lực Và Sự Phối Kết Hợp Với Các Cơ Quan, Tổ Chức Trong Hoạt Động Kiểm Tra, Đánh Giá Ccđt:

Phần lớn nạn nhân không có kiến thức về bảo quản và thu thập dấu vết điện tử phục vụ công tác điều tra, nên thường có hành vi làm ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của dữ liệu (làm mất dấu vết điện tử chứng minh về thủ phạm và hành vi tấn công) như mở máy, tự kiểm tra máy, nhờ người không có chuyên môn kiểm tra để lây nhiễm virus…

Nhiều trường hợp, chứng cứ về hành vi phạm tội, về thiệt hại…chỉ tồn tại ở dạng DLĐT trên môi trường mạng, lưu trữ trên máy chủ ở nước ngoài, tự động xóa theo lập trình của hệ thống. Khi có nguy cơ bị lộ, quản trị viên chỉ cần vài phút là đã có thể xóa hết các dữ liệu này. Nhiều dữ liệu chỉ tồn tại một lần, phải chặn thu trên đường truyền (dịch vụ OTT, cá độ, mua hàng trên mạng,…), dữ liệu về hành vi tấn công mạng, nạn nhân, thiệt hại lưu trên máy chủ nước ngoài…chỉ có thể thu thập được trong giai đoạn trình sát ban đầu vì các đối tượng này nắm quyền quản trị, ngay khi biết thông tin bị lộ đã lập tức xóa hết cơ sở dữ liệu đang lưu trên máy chủ ở nước ngoài. Lúc này, ĐTV chỉ có thể sử dụng dữ liệu điện tử đã thu được trong giai đoạn trinh sát và chuyển hóa thành chứng cứ theo thủ tục tố tụng hình sự.

Đối với các nguồn dữ liệu quan trọng là máy tính, USB, điện thoại di động, email…của đối tượng, nếu không đảm bảo tính bí mật và đồng loạt phá án thì đối tượng chỉ cần vài phút là có thể dễ dàng xóa dữ liệu, tiêu hủy hết tang vật, chứng cứ trước khi khám xét.

3.1.2.2. Về vấn đề giám định các CCĐT:

Trong thực tiễn tố tụng, CQTHTT còn tiến hành giám định DLĐT. Hoạt động giám định DLĐT do giám định viên tư pháp thực hiện phần lớn là hoạt động phục hồi, giải mã, phân tích tập trung vào việc tìm kiếm dữ liệu đang lưu, tồn tại trong thiết bị lưu trữ trên mạng hoặc trong thiết bị kỹ thuật số của cá nhân, để tìm dữ liệu làm chứng cứ. Đây không phải là hoạt động so sánh, truy nguyên đồng nhất DLĐT vì không có file gốc làm chuẩn mà hoạt động này chỉ nhằm tìm kiếm dữ liệu có nội dung liên quan đến hành vi phạm tội, thủ phạm, nạn nhân hoặc thiệt hại.

Sau khi có kết luận giám định, CCĐT được chuyển hóa thành chứng cứ vật chất kết hợp với các chứng cứ khác liên quan như vật chứng, lời khai... là căn cứ chứng minh tội phạm, góp phần quyết vụ án đúng đắn, khách quan. DLĐT không

thuộc trường hợp bắt buộc phải giám định theo quy định của BLTTHS 2015 dẫn đến việc giám định hay không tùy thuộc vào đánh giá của CQTHTT. Nội dung giám định cũng chỉ yêu cầu xác định tính toàn vẹn của DLĐT mà khó có thể yêu cầu chi tiết các nội dung khác. Trong một số trường hợp, nhìn bằng mắt thường có thể xác định được người, vật trong đoạn video clip, tuy nhiên, khi kết luận giám định, cơ quan giám định lại không khẳng định do không có đặc điểm riêng rò ràng, đây là vấn đề đã xảy ra nhưng chưa có biện pháp giải quyết.

3.1.2.3. Về khai thác dữ liệu điện tử:

Các CQTHTT đang gặp nhiều khó khăn khi chuyển hóa những đoạn video clip thành chứng cứ dưới dạng có thể đọc được. Đối với DLĐT được thu từ camera an ninh dưới dạng video clip, hiện nay thường sử dụng phương pháp cho người tham gia tố tụng xem trực tiếp để xác định người, vật và các hoạt động diễn ra trong đoạn video clip thu được rồi lập biên bản ghi nhận. Trong một số trường hợp, người xem có sự thay đổi về kết quả quan sát, điều này rất dễ dẫn đến kết quả nhận định, đánh giá sai lầm. Trong một số trường hợp, DLĐT do người tham gia tố tụng tự sao in, giao nộp, tự in hình ảnh, tin nhắn có nội dung liên quan đến vụ án thì giá trị chứng minh thế nào? Biên bản cho người tham gia tố tụng trực tiếp xem hình ảnh, video clip là hoạt đ động gì trong các hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS 2015 (có thể coi là hoạt động nhận dạng hay không?).

3.1.2.4. Về điều kiện cơ sở vật chất, năng lực và sự phối kết hợp với các cơ quan, tổ chức trong hoạt động kiểm tra, đánh giá CCĐT:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Đối với các vụ án hình sự sử dụng CCĐT, đòi hỏi NTHTT phải có kiến thức về các loại hình DLĐT, có sự hiểu biết nhất định về công nghệ thông tin.

Thực tiễn cho thấy, đối với những vụ án không quá phức tạp như các vụ án về môi giới mại dâm, ma túy, đánh bạc các đối tượng thường sử dụng thiết bị số để nhắn tin, gọi điện trao đổi, thỏa thuận nội dung với nhau. Việc thu thập DLĐT để chứng minh hoặc củng cố chứng cứ thường ở mức đơn giản, sau khi thu giữ thiết bị số thì CQĐT tiến hành lập biên bản kiểm tra, trích xuất, sao chép dữ liệu như tin nhắn, lịch sử cuộc gọi giữa các thuê bao mà các đối tượng sử dụng để đấu tranh với

Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - 8

đối tượng. Khi đối tượng khai nhận phù hợp thì bản sao của các dữ liệu trên được đưa vào hồ sơ vụ án với tư cách là một chứng cứ chứng minh tội phạm.

Đối với những vụ án phức tạp hơn, đối tượng sử dụng những thủ đoạn tinh vi hơn, dấu vết tội phạm để lại ở dữ liệu mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác đòi hỏi phải tiếp cận nguồn cơ sở dữ liệu đã được mã hóa, chặn thu dữ liệu trên đường truyền (giữa máy chủ-máy chủ, máy tính cá nhân-máy chủ, dữ liệu truyền bằng ADSL, mobile, vệ tinh), giải mã dữ liệu đã mã hóa, ... thì phải có sự kết hợp với các tổ chức chuyên môn, các chuyên gia hoặc cơ quan có thẩm quyền (cơ quan thứ ba) tiến hành việc tìm kiếm, phục hồi, chuyển đổi dữ liệu điện tử thành dạng hữu hình có thể đọc, nghe, nhìn... được. Tuy nhiên, việc chờ đợi kết quả từ các cơ quan này liên quan đến vấn đề thời hạn tố tụng, điều này ảnh hướng rất lớn đến tiến độ giải quyết vụ án. Như vậy, mặc dù việc thu thập phương tiện điện tử diễn ra nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của BLTTHS nhưng luật không quy định chặt chẽ về thời hạn, trách nhiệm của cơ quan thứ ba, cũng như không có cơ chế phối hợp nên việc sử dụng CCĐT vào việc giải quyết vụ án hình sự chưa đạt hiệu quả cao.

Vấn đề năng lực, trình độ, hiểu biết về công nghệ của đa số NTHTT hiện nay còn rất hạn chế; các khái niệm như đường truyền, cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn, yếu tố phù hợp khác… còn chung chung; tính năng, tác dụng của các phương tiện điện tử cùng loại nhưng khác nhà sản xuất cũng không đồng nhất…Lực lượng trinh sát, ĐTV, KSV và Thẩm phán có trình độ chuyên môn về công nghệ thông tin không nhiều, nên rất khó khăn trong việc tìm, thu giữ, bảo quản, phục hồi, phân tích và chuyển hóa DLĐT làm chứng cứ trong quá trình lập hồ sơ, truy tố và xét xử.

Việc thống nhất nhận thức giữa CQĐT, VKS, Tòa án về giá trị CCĐT thường rất khó khăn (ví dụ: Đối tượng nhận tiền của nạn nhân, rồi nhập điểm vào mạng. Khi khôi phục dữ liệu trên máy tính, đối chiếu với lời khai, có quan điểm cho rằng chứng cứ này chưa có tính thuyết phục vì việc giao nhận tiền không có ký nhận của hai bên). Đây cũng là vấn đề cần phải có kế hoạch bồi dưỡng, trang bị các kiến thức cơ bản về công nghệ. Mặt khác, bản thân NTHTT cũng cần tự nghiên cứu,

tìm hiểu nguyên lý, đặc điểm, chức năng của một số phương tiện điện tử thông thường, nguyên lý hoạt động của mạng viễn thông, mạng xã hội… để vận dụng khi giải quyết vụ án hình sự.

3.1.3. Khó khăn trong điều tra, truy tố và xét xử tội phạm liên quan đến các chứng cứ điện tử

Về quá trình giải quyết các vụ án có sử dụng CCĐT, các CQTHTT trên cả nước nói chung, CQTHTT tại TP.HCM nói riêng đã gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ. CQTHTT không thể thu thập được dữ liệu, chứng cứ đang lưu trên server ở nước ngoài để chứng minh hành vi phạm tội, xác định người bị hại…Giữa các CQTHTT các quận, huyện và các cấp còn tồn tại nhận thức chưa thống nhất về thủ đoạn phạm tội cũng như cách vận dụng pháp luật để giải quyết án. Những khó khăn đó bắt nguồn từ tính “phi truyền thống” của những vụ án này: Từ việc can phạm và nạn nhân không tiếp xúc trực tiếp với nhau (chỉ thông qua mạng internet), thậm chí không có liên hệ nào dẫn tới không thể xác định được người bị hại cụ thể, không xác định được danh tính thật và địa chỉ thật của nạn nhân, không thể thu thập tố cáo của nạn nhân. Chứng cứ vật chất lại hạn chế, thường chỉ là thẻ tín dụng giả, tài khoản ngân hàng ảo. Quan trọng nhất là dữ liệu máy tính thể hiện phương thức, thủ đoạn phạm tội thì đến nay chưa đương nhiên được coi là chứng cứ nếu không xử lý tốt bằng các biện pháp tố tụng, chuyển hóa.

Các CCĐT thường được thủ phạm sử dụng thông qua mạng internet với thủ đoạn rất tinh vi, phạm vi lan tỏa rất nhanh và rộng, số người bị hại thường rất lớn, sống ở nhiều địa phương, nhiều nước khác nhau. Ngân hàng các nước sử dụng quỹ phòng ngừa rủi ro, bảo hiểm để trả lại số tiền bị mất cho bị hại và thường không hợp tác với CQĐT nhằm bảo vệ uy tín của ngân hàng. Ngoài ra, nạn nhân không muốn lộ danh tính hoặc số tiền thiệt hại của mỗi người ít nên họ không hợp tác với CQĐT nói riêng và CQTHTT nói chung, gây khó khăn cho quá trình xử lý tội phạm.

Bên cạnh đó, công tác hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm liên quan đến CCĐT còn gặp nhiều khó khăn về hành lang pháp lý, về cơ chế phối hợp, về nguồn nhân lực, về trình độ của cán bộ thực thi pháp luật. Trong đó, việc xác định hành vi phạm tội và mức hình phạt ở các nước trên thế giới khác nhau tùy thuộc vào

quy định của từng nước. Do đó, việc hợp tác, điều tra tội phạm, thu thập CCĐT gặp rất nhiều khó khăn, kể cả khi đã có Hiệp định tương trợ tư pháp. Để được Cảnh sát các nước hỗ trợ cung cấp thông tin truy cập, IP, logfile, thông tin về thủ phạm, về chủ thể, bị hại, thiệt hại…phải thông qua VKSNDTC gửi cơ quan có thẩm quyền của nước đối tác yêu cầu cung cấp tài liệu. Yêu cầu này chỉ được trả lời khi phía Việt Nam cung cấp đủ chứng cứ phạm tội theo luật của nước đó và thường phải chờ một thời gian rất dài để có lệnh của Thẩm phán buộc ISP cung cấp dữ liệu lưu trong máy chủ. Tuy nhiên, hầu hết các yêu cầu của phía Việt Nam không được đáp ứng hoặc có được lệnh của Thẩm phán thì cũng đã quá lâu, máy chủ không còn lưu dữ liệu nữa. Trên thực tế, yêu cầu phối hợp điều tra, thu thập dữ liệu qua kênh Interpol, hợp tác của Cảnh sát các nước và kênh tương trợ tư pháp của VKSNDTC thường chậm hoặc cho kết quả không cao, ảnh hưởng rất nhiều đến việc giải quyết vụ án đòi hỏi phải sử dụng các CCĐT làm căn cứ xử lý tội phạm [5; tr.236].

3.2. Một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng Hình sự Việt Nam về CCĐT.

3.2.1. Một số quan điểm về hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng Hình sự Việt Nam về chứng cứ điện tử.

- Về mặt văn bản pháp luật, cần phải tiếp tục hoàn thiện chế định CCĐT trong hệ thống pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam bằng những quy định rò ràng, cụ thể về việc thu thập, kiểm tra, đánh giá CCĐT; Ngoài ra, cần có quy định chặt chẽ về trách nhiệm thậm chí là chế tài xử lý nghiêm khắc đối với cá nhân, tổ chức (cơ quan thứ 3) trong việc chậm trễ cung cấp DLĐT, giám định DLĐT làm ảnh hưởng tới tiến trình giải quyết vụ án.

Chế định CCĐT là một khái niệm mới và khó đối với ngành luật Tố tụng Hình sự của Việt Nam. BLTTHS 2015 đã luật hóa chế định CCĐT, nhưng các quy định chưa cụ thể, rò ràng, cụ thể:

+ Thứ nhất, chưa có quy định, quy trình quy chuẩn cho quá trình chứng minh vụ án hình sự bằng chế định CCĐT;

+ Thứ hai, các công cụ phục vụ cho công việc này chưa được đánh giá độ tin cậy, chưa có tiêu chuẩn cho Việt Nam;

+ Thứ ba, con người đáp ứng cho chế định CCĐT chưa được chuẩn bị tốt về trình độ, kỹ năng và nhận thức.

Do đó, để chủ động giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về CCĐT, tác giả cho rằng cần sớm tập trung nghiên cứu chế định CCĐT theo hướng quy định chi tiết quy trình xử lý, cách thức sử dụng CCĐT chứng minh trong vụ án hình sự.

Sự thành công hay thất bại của quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có sử dụng phương tiện điện tử, các giai đoạn tố tụng của vụ án sử dụng CCĐT được mở ra hay kết thúc đều hướng đến việc tìm kiếm và làm rò, đánh giá các CCĐT đã thu thập. Khi xử lý một vụ án, có nghĩa là làm rò quá khứ của hành vi, hậu quả đã thực hiện, đã xảy ra; dù có thu thập được nhiều CCĐT có giá trị buộc tội nhưng chỉ cần một CCĐT gỡ tội thì toàn bộ CCĐT buộc tội đều vô nghĩa [14, tr.60].

Nguồn của CCĐT là các DLĐT, đó là những ký tự được lưu giữ trong thiết bị điện tử hoặc trên mạng internet mà từ đó có thể tạo ra chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh,,,phản ánh hoặc mang dấu vết của sự kiện phạm tội. Những DLĐT này một mặt rất dễ bị tẩy xóa, sửa chữa, thay đổi, hủy bỏ do cố ý hoặc vô ý; mặt khác, trong nhiều trường hợp tự nó không thể có giá trị chứng minh nếu không có sự tác động của nhà chuyên môn với sự trợ giúp của các thiết bị điện tử và chương trình phần mềm được thừa nhận là khách quan và khoa học.

Do đó, cần thiết quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi, phân tích DLĐT, cũng như việc sử dụng các thiết bị hoặc phần mềm được thế giới công nhận trong việc khôi phục dữ liệu nhằm đảm bảo tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của CCĐT.

- Cần thiết phải xác định phương hướng cho hoạt động thu thập DLĐT đó là:

(i) Phải xuất phát từ những thông tin, tài liệu, chứng cứ ban đầu về vụ án đã thu thập được, đây là cơ sở đầu tiên giúp cho cơ quan có thẩm quyền xác định phương hướng thu thập dữ liệu điện tử; (ii) Xuất phát từ quy luật dấu vết điện tử có điểm riêng biệt so với dấu vết hình sự khác, căn cứ vào nguồn gốc hình thành và đặc điểm của vật mang dấu vết điện tử (phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền); (iii) Quy luật hoạt động của các đối tượng phạm tội

đối với các hệ, loại đối tượng là khác nhau, chẳng hạn như: Quy luật hoạt động của các đối tượng sử dụng công nghệ cao xâm phạm an ninh quốc gia sẽ có những điểm đặc trưng so với quy luật hoạt động của các đối tượng sử dụng công nghệ thông tin để hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản....Từ đó, cần nâng cao kiến thức cơ bản về dữ liệu điện tử, về công nghệ thông tin (am hiểu nhất định về đối tượng đang được khai thác) của những người tiến hành tố tụng, đảm bảo nguồn nhân lực chủ động trong việc xử lý các vụ án liên quan đến CCĐT.

- Cần thiết phải có những tổng kết khoa học và thực tiễn về thu thập, đánh giá, sử dụng CCĐT trong các vụ án hình sự. Mặt khác, dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ phi truyền thống, tồn tại trên không gian mạng, sự tồn tại đó có thể vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia và loại tội phạm để lại dấu vết này cũng thường mang tính chất xuyên quốc gia.

- Tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm liên quan đến CCĐT thông qua việc tăng cường ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp; nội luật hóa các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan trong lĩnh vực tố tụng hình sự; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng pháp luật về CCĐT.

3.2.2. Một số giải pháp về hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng Hình sự Việt Nam về CCĐT

Để góp phần khắc phục những khó khăn, thiếu sót trong thực tiễn thu thập, bảo quản, sử dụng CCĐT, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về CCĐT, tác giả xin đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, cần tiến hành các cuộc khảo sát thực trạng tình hình tội phạm hình sự xảy ra trong môi trường không gian mạng, và tổng hợp kết quả xử lý ở nhiều khía cạnh, ví dụ như:

- Khảo sát hiện tượng tội phạm sử dụng không gian mạng như là công cụ, đồng thời cũng là mục tiêu để thực hiện hoạt động phạm tội. Điển hình như tấn công DoS, sử dụng không gian mạng là công cụ thực hiện, đồng thời qua đó đạt được mục tiêu là tấn công để gây gián đoạn hoạt động của một hệ thống nào đó trên không gian mạng;

- Khảo sát hiện tượng tội phạm sử dụng không gian mạng như là công cụ để hoạt động phạm pháp hình sự, như: sử dụng không gian mạng để trộm cắp tiền trong tài khoản ngân hàng, lừa đảo thương mại…

- Khảo sát hiện tượng không gian mạng như là một hệ thống độc lập ghi nhận chứng cứ phạm tội, như: hệ thống camera công cộng ghi nhận hình ảnh đối tượng thực hiện hành vi cướp giật trên đường; hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ…

- Khảo sát hiện tượng không gian mạng với tư cách là phương tiện phục vụ cuộc sống của cá nhân con người, đồng thời cũng là công cụ gián tiếp phục vụ cho việc giám sát hoạt động của con người, được xem như một thiết bị phục vụ cho hành vi phạm tội. Ví dụ như đối tượng thực hiện hành vi phạm tội gọi điện thoại để yêu cầu taxi chở đối tượng đến vị trí gây án, nhưng người taxi không hay biết. Trường hợp này thì điện thoại, mạng viễn thông, taxi và hệ thống thông tin tổng đài của taxi không phải là công cụ được tội phạm sử dụng phạm tội, nó cũng không phải là phương tiện giám sát trực tiếp đối tượng, nhưng rò ràng là dữ liệu điện tử lưu trên thiết bị điện thoại di động, mạng viễn thông, hệ thống thông tin của taxi, là công cụ gián tiếp thông tin hành vi đối tượng phạm tội…

Các kết quả của các cuộc khảo sát sẽ tạo cơ sở để đánh giá được tình hình và kết quả xử lý tội phạm hình sự ở Việt Nam có liên quan đến CCĐT; từ đó nắm bắt được nhu cầu sử dụng CCĐT trong hoạt động tố tụng hình sự và định hình được chế định CCĐT rò ràng hơn.

Thứ hai, nghiên cứu chế định CCĐT của các nước tiên tiến, đồng thời rà soát hệ thống pháp luật của Việt Nam, để xây dựng chế định riêng về CCĐT với những quy định rò ràng, cụ thể về hệ thống khái niệm, thuật ngữ quan trọng trong chế định CCĐT (như khái niệm về CCĐT, dữ liệu điện tử, vật chứng điện tử, không gian mạng, tội phạm trên không gian mạng…); về việc thu thập, kiểm tra, đánh giá CCĐT cũng như ban hành văn bản hướng dẫn về đường lối xử lý đối với các tội phạm công nghệ cao trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phù hợp với tình hình tội phạm thực tế đã, đang diễn ra, cũng như sự đồng bộ với các bộ luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam; ban hành đầy đủ các văn bản

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022