Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 - 1


MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài

Qua hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, đạt được những thành tựu rất quan trọng, đưa nền kinh tế từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Để đạt những thành tựu đó, Việt Nam thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991-2000 và thời kỳ 2001-2010. Hiện tại, Việt Nam đang chuẩn bị xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho thời kỳ 2011-2020 và Chính phủ đang xin ý kiến đóng góp rộng rãi về chủ đề tư tưởng của chiến lược này.

Tuy nhiên, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua chưa thể hiện rò ý tưởng chiến lược và các mục tiêu chủ đạo của chiến lược để định hướng cho dân tộc bứt phá, trở thành quốc gia giàu có sánh vai với các cường quốc năm châu. Nhận thức về chiến lược phát triển còn mơ hồ, lẫn lộn nên việc triển khai thực hiện chiến lược phát triển đất nước chưa đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới biến động mạnh mẽ, các quá trình hợp tác và cạnh tranh luôn diễn ra song hành, phức tạp và không ngừng phát triển, Việt Nam cần phải xác định rò xuất phát điểm của mình, các điểm mạnh, các điểm yếu, các cơ hội và nguy cơ để từ đó xây dựng một chiến lược phát triển có khoa học, tạo được sự đồng thuận rộng lớn trong toàn xã hội nhằm xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh.

Những vấn đề trên rất rộng lớn và phức tạp, nó đang là mối bận tâm không chỉ của các nhà khoa học, các nhà quản lý và hoạch định chính sách, mà còn là của cả dân tộc. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề về chiến lược phát triển và hơn hết là thể hiện một bản chiến lược phát triển có ý tưởng chiến lược, mục tiêu chiến lược rò ràng do đó chúng tôi chọn đề tài “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020”.


Cơ sở lý luận chung về chiến lược phát triển

Thu thập thông tin thứ cấp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Một số yếu tố tác động phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020

2. Khung nghiên cứu

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 - 1


Đặt vấn đề


Mục tiêu nghiên cứu




Tổng kết SWOT



Đề xuất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đền 2020


Kết luận


3. Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm về chiến lược phát triển của Việt Nam và một số nước. Từ đó rút ra các vấn đề có tính phương pháp luận cho việc nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

Thông qua phân tích các yếu tố chủ yếu tác động đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam để chỉ ra điểm xuất phát của nền kinh tế, các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới.

Từ đó, mong muốn cao nhất của đề tài là thể hiện được một khung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam rò ràng với tư tưởng chủ đạo của chiến


lược, mục tiêu của chiến lược, các nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược và tổ chức thực hiện chiến lược.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu được xác định là các hoạt động của nền kinh tế Việt Nam, trong đó tập trung vào một số yếu tố chủ yếu (yếu tố địa lý, nguồn nhân lực, thực trạng phát triển nền kinh tế, hệ thống tài chính, khoa học - công nghệ, kết cấu hạ tầng, an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường, vai trò nhà nước và bối cảnh quốc tế) tác động đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

Mặc dù có nhiều cố gắng, song bản thân vấn đề nghiên cứu khá rộng, phức tạp và hơn nữa nội dung một bản chiến lược không phải là sự liệt kê tất cả các ngành, lĩnh vực nên đề tài chỉ xin đề cập đến một số vấn đề chủ yếu trên được cho là cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020. Đối với lĩnh vực an ninh và quốc phòng, đề tài chỉ đề cập đến như là một bộ phận không thể thiếu trong chiến lược phát triển mà không đi sâu vào phân tích.

Nguồn số liệu thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu của đề tài được chúng tôi tiến hành thu thập và xử lý từ các nguồn chính sau: Tổng cục Thống kê Việt Nam; các tổ chức quốc tế WB, ADB, WEF và kế thừa một số tài liệu từ các nguồn nghiên cứu khác (có ghi rò trích dẫn).

5. Phương pháp nghiên cứu

Với cách tiếp cận hệ thống, đề tài phân tích một số yếu tố chủ yếu tác động phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong nền kinh tế thế giới đến năm 2020. Kết hợp với sử dụng phương pháp SWOT để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến 2020.

Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, thống kê học và phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của đề tài

Về mặt khoa học: đề tài đã góp phần hệ thống hóa và làm rò hơn các vấn đề lý luận về chiến lược phát triển, qua đó góp phần khẳng định vị trí, vai trò của chiến


lược trong phát triển đất nước; góp phần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 với tư tưởng chiến lược và mục tiêu chiến lược rò ràng. Về mặt thực tiễn: đề tài phân tích trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam,

chỉ ra những lợi thế, hạn chế, cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong tổng thể nền kinh tế thế giới. Đề tài đề xuất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài này gồm ba chương chính. Chương 1, cơ sở lý luận chung về chiến lược phát triển. Chương 2, một số yếu tố chủ yếu tác động phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020. Chương 3, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020.


Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN


Chương 1 tập trung làm rò một số vấn đề lý luận về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; một số quan điểm và lý thuyết vào nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; kinh nghiệm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở một số nước và công tác nghiên cứu, thực thi chiến lược phát triển ở Việt Nam thời gian qua làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu của đề tài.


1.1. Lý luận chung về chiến lược phát triển

1.1.1. Quan niệm chiến lược phát triển

Chiến lược phát triển là tinh thần cơ bản của đường lối phát triển do con người định ra, nó thể hiện chủ đề tư tưởng và gắn liền với chủ đề tư tưởng ấy là phạm vi bao quát và nội dung chủ yếu của chiến lược được thể hiện thông qua mục tiêu, hệ thống các quan điểm, biện pháp cơ bản có tính chiến lược về phát triển ở tầm cao, tầm tổng thể, tầm dài hạn đối với sự phát triển của một đối tượng (hay của một hệ thống) mà các nhà lãnh đạo đề ra; nó chỉ đạo hành động thống nhất của một cộng đồng hay một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất, lớn nhất, tổng quát nhất đã xác định.

Theo Ngô Doãn Vịnh (2007), ở phương Tây, người ta thường sử dụng thuật ngữ “chiến lược quốc gia”. Chiến lược quốc gia là chiến lược ở tầm vĩ mô, là chiến lược ở tầng cao nhất về bảo vệ, xây dựng, phát triển của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Nó chẳng những gồm, gộp chiến lược về chính trị, chiến lược về kinh tế, chiến lược về quân sự thành một khối, mà còn có sự chỉ đạo hành động trên thực tế đối với chiến lược của các lĩnh vực, các vấn đề phát triển của đất nước; Các học giả Trung Quốc cho rằng chiến lược là những mưu tính và quyết sách đối với những vấn đề trọng đại có tính chất toàn cục và lâu dài, còn lý luận và phương pháp quyết sách những vấn đề trọng đại mang tính toàn cục và lâu dài là nhiệm vụ của chiến lược học; Các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) đề ra chiến lược phát triển đến


năm 2020; được coi như là tuyên bố của họ với dân chúng của EU và thế giới về chủ trương phát triển của EU; Người Mỹ và người Đức sử dụng khái niệm “kế hoạch chiến lược”. Những kế hoạch có tầm chiến lược về đối nội, đối ngoại được xây dựng và thông qua đã trở thành công cụ lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc phát triển đất nước; Các nhà khoa học của Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư nước Việt Nam cho rằng, những mưu tính có tính toàn cục, lâu dài, cơ bản được xem là chiến lược.

Như vậy, có thể hiểu chiến lược phát triển là thể hiện tinh thần cơ bản của đường lối phát triển của một quốc gia; nó chính là ý tưởng mang tính hệ thống về các quan điểm chỉ đạo phát triển đối với một đối tượng cụ thể hay đối với một hệ thống nào đó và phương cách biến những ý tưởng, quan điểm, mục tiêu ấy thành hiện thực. Chiến lược phát triển là sản phẩm do con người tạo ra, phản ánh các vấn đề mang tính quy luật được dự báo và được “chủ quan hóa” một cách khoa học để chỉ đạo quá trình phát triển của đời sống xã hội.

1.1.2 Nội dung của chiến lược phát triển

Có ba vấn đề cần đặc biệt quan tâm khi bàn đến chiến lược phát triển.

- Thứ nhất, đường lối cơ bản phát triển đất nước phải được phản ánh ở chủ đề tư tưởng chiến lược và hệ thống các quan điểm chỉ đạo chiến lược, mà chúng được thông qua các mục tiêu, phạm vi bao quát của chiến lược và những nhiệm vụ cơ bản phải thực hiện để đạt mục tiêu đó. Mục tiêu chiến lược cần phải được xác định đúng và các nhiệm vụ cơ bản hay phương thức thực thi phải được xác định chính xác. Một khi đã xác định sai mục tiêu sẽ dẫn đến xác định sai nhiệm vụ, tập trung sai nguồn lực, làm sai hướng phát triển và đó là một quyết định mang tính chiến lược sai.

- Thứ hai, phải đảm bảo đầy đủ, kịp thời các phương tiện vật chất và tinh thần để biến các mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược thành hiện thực. Mỗi nhiệm vụ cần được hoàn thành trong một khoảng thời gian nhất định, bằng phương cách nhất định và bằng một lực lượng vật chất nhất định nhưng chúng không tách rời các nhiệm vụ khác. Hệ thống các nhiệm vụ cần được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên, tuy nhiên có thể điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh.


- Thứ ba, việc điều hành và tổ chức thực hiện chiến lược có ý nghĩa cực kỳ to lớn, nó có tính quyết định tới việc biến các ý tưởng, quan điểm và mục tiêu chiến lược trở thành hiện thực. Trong quá trình tổ chức thực hiện chiến lược sẽ bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, mà những yếu tố này về nguyên tắc chúng luôn vận động và tương tác lẫn nhau nên đòi hỏi sự linh hoạt, nhạy bén, kiên quyết, dứt điểm của người chỉ đạo và tổ chức thực thi chiến lược. Đồng thời, việc kiểm tra, rà soát để kịp thời điều chỉnh chiến lược là việc làm cần thiết nhằm làm cho sự phát triển của đất nước trở nên đúng đắn, liên tục và thiết thực.

Như vậy, chiến lược phát triển là chiến lược về sự phát triển của một hệ thống, chiến lược dẫn dắt hệ thống đó phát triển đúng hướng và có kết quả theo mong muốn. Muốn hệ thống vận động theo hướng có lợi thì phải điều khiển nó theo quy luật vận động của nó. Việc nắm bắt quy luật vận động và cụ thể hóa các quy luật thành chiến lược phát triển cho hệ thống là vấn đề quan trọng và có tính bắt buộc đối với sự phát triển của hệ thống.

Chiến lược phát triển đất nước không phải là kế hoạch phát triển dài hạn hoặc trung hạn, càng không thể là kế hoạch phát triển ngắn hạn. Do đó tính cụ thể, tính lượng hóa của nó không nhiều, vừa đủ đảm bảo cơ sở khoa học của các chủ trương và đường lối phát triển dài hạn và mang tầm chiến lược của đất nước. Trước hết mục tiêu chiến lược phải cụ thể, các vấn đề trọng yếu mà chiến lược đề cập (hay những nhiệm vụ chiến lược phải làm), các bước thực hiện và tổ chức thực hiện phải được thể hiện một cách cụ thể. Ý tưởng chiến lược, mục tiêu chiến lược phát triển đất nước phải được thể hiện trong văn kiện lớn của đảng cầm quyền hay của nhà nước; có như thế mới tạo ra sự thống nhất và quyết tâm trong hành động của cả dân tộc. Tính lượng hóa được thể hiện để làm rò mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển; cần tính toán các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội trọng yếu. Chẳng hạn như các chỉ tiêu về quy mô dân số, tổng sản phẩm quốc nội, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân và một số chỉ tiêu khác phải được tính toán và thể hiện bằng con số với biên độ nhất định. Hệ thống các chỉ tiêu cụ thể có thể đính kèm như phụ lục minh họa.


Một chiến lược phát triển cần phải có:

- Tên gọi của chiến lược: đây là vấn đề rất quan trọng và luôn luôn khó. Tên của chiến lược phải dễ hiểu, chính xác, rò ràng, thu hút sự chú ý và phải chứa đựng tư tưởng lớn.

- Ý tưởng và mục tiêu chiến lược: bất kỳ quốc gia nào, phát triển không phải chỉ là đạo lý mà còn phải là chân lý. Xác định mục tiêu đúng sẽ có ý nghĩa quan trọng để hành động chuẩn xác, có hiệu quả. Mục tiêu chiến lược thể hiện ý tưởng chiến lược phát triển. Ý tưởng chiến lược phải được thiết kế tương đối cụ thể, nó mang nội hàm của nhiều luận điểm chiến lược có căn cứ khoa học.

- Nhiệm vụ cơ bản hay trọng tâm của chiến lược (cụ thể hóa thành các mục tiêu, nhiệm vụ cấp thấp) và lựa chọn phương cách để thực thi các mục tiêu chiến lược. Đây chính là tập hợp các chiến lược con hay tiểu chiến lược hoặc các nhiệm vụ cơ bản cùng phương cách được lựa chọn để thực hiện được mục tiêu tổng quát. Chẳng hạn, đối với chiến lược phát triển quốc gia sẽ có các chiến lược thành phần về: phát triển ngành, lĩnh vực, phát triển lãnh thổ, phát triển nhân lực và khoa học - công nghệ, thu hút đầu tư, xây dựng nhà nước gắn với cải cách hệ thống chính trị và phòng chống tham nhũng.

- Đề xuất phương án tổ chức thực hiện chiến lược sau khi chiến lược được cấp có thẩm quyền công bố. Chỉ đạo thực hiện chiến lược có vai trò lớn đối với việc biến chiến lược thành hiện thực. Vấn đề đặc biệt quan trọng là xây dựng cho được chương trình hành động rò ràng, chính xác và tổ chức thực hiện chương trình này có kết quả, có hiệu quả.

1.1.3. Đặc tính cơ bản của chiến lược phát triển

Chiến lược phát triển đất nước có các đặc tính cơ bản sau:


- Tính Đảng và tính dân tộc: phải thể hiện được quan điểm chủ đạo của đảng cầm quyền, đáp ứng được lý tưởng, hy vọng cao đẹp của nhân dân và thể hiện đậm nét tính dân tộc.

- Tính hệ thống: chiến lược phát triển đất nước cần có tính hệ thống và đã mang tính hệ thống thì nó phải mang tính ổn định tương đối. Trên nguyên tắc hệ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/06/2022