Nhận Xét Chung Về Tình Hình Giai Cấp Và Ruộng Đất Ở Nông Thôn Kiến An Trước 1955


sách dân chủ của ta, và việc thuê mướn nhân công cũng gặp nhiều khó khăn nên địa chủ đã trả lại những ruộng công và bán công, nhất là từ năm 1949 trở đi. Ở Vùng du kích (Tiên Lãng, Vĩnh Bảo), năm 1953, ta đã chủ trương rút ruộng công và bán công trong tay địa chủ, đem chia cho nông dân không có hoặc thiếu ruộng. Nơi không có ruộng công như Vĩnh Long (Vĩnh Bảo), ta đã tập trung ruộng đất bán công lại và chia cho nông dân. Còn vùng tạm chiếm, ruộng đất công và bán công hầu như không biến chuyển.

Nhìn chung, ruộng đất công và bán công có chiều hướng giảm mạnh, từ sau cách mạng đến trước cải cách ruộng đất. Phần lớn số ruộng này đã chuyển vào tay nông dân. Theo số liệu 12 xã điều tra, cho đến trước cải cách ruộng đất, trung nông đã sử dụng 1.081 mẫu 7 sào ruộng công, bần nông sử dụng

2.215 mẫu 9 sào, cố nông sử dụng 613 mẫu 8 sào. Tổng cộng, ruộng đất công do nông dân lao động sử dụng là 3.910 mẫu 4 sào trên tổng số 4.303 mẫu 5 sào ruộng đất công và bán công của 12 xã, chiếm tỷ lệ 99% [3,16].

Như vậy, đến thời điểm năm 1955, ruộng đất công và bán công đã căn bản vào tay nông dân, chỉ riêng vùng tạm chiếm mới giải phóng, địa chủ còn sử dụng một ít (xã Đông Phương, huyện Kiến Thuỵ, địa chủ còn sử dụng 24 mẫu).

1.2.6. Nhận xét chung về tình hình giai cấp và ruộng đất ở nông thôn Kiến An trước 1955

Từ sau cách mạng Tám đến trước cải cách ruộng đất, tình hình giai cấp và ruộng đất ở nông thôn Kiến An có nhiều biến chuyển.

Theo số liệu 12 xã điều tra, năm 1945, giai cấp địa chủ chiếm 4% dân số, chiếm hữu 34% ruộng đất toàn tỉnh. Nếu tính cả ruộng đất của địa chủ nhà chung và địa chủ thực dân thì tỷ lệ chiếm trên 50%. Nông dân với hơn 90% dân số, tính cả ruộng đất chiếm hữu và sử dụng chưa đầy 40%, bị địa chủ bóc lột nặng nề. Kinh tế phú nông thì nhỏ bé, chỉ chiếm 6.5% ruộng đất toàn tỉnh.


Trong kháng chiến, ta đã trừ khử một số tên địa chủ Việt gian phản động, tịch thu ruộng đất của chúng và một phần ruộng đất đồn điền thực dân. Mặt khác, ta đã tiến hành một số chính sách hạn chế được sự bóc lột của địa chủ, làm yếu cơ sở kinh tế của giai cấp này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Về thành phần, cả địa chủ và phú nông đều có xu hướng giảm mạnh, và có sự phân hóa ở các vùng. Vùng du kích giảm mạnh hơn vùng tạm chiếm. Riêng miền biển, địa chủ cường hào gian ác còn rất ít hoặc không còn địa chủ nào.

Sở hữu ruộng đất của địa chủ cũng giảm mạnh. Cho đến trước cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ toàn tỉnh chiếm chưa đầy 2% dân số và chỉ còn 12.2% ruộng đất.

Cải cách ruộng đất tại Kiến An (1955-1957) - 4

Mức độ bóc lột của địa chủ không còn nặng nề như trước. Đến năm 1955, nhiều nơi địa chủ hầu như không còn bóc lột được nữa.

Về nông dân lao động, trong thời gian kháng chiến được tạm chia, tạm cấp ruộng đất hay nhận ruộng phân tán từ địa chủ, phú nông nên cũng có chuyển biến về thành phần. Số lượng bần, trung nông ngày một tăng, cố nông giảm xuống còn rất ít. Đời sống của nông dân lao động cũng được cải thiện đáng kể. Cho đến trước cải cách ruộng đất, nếu tính cả ruộng đất chiếm hữu và sử dụng, nông dân lao động đã có 70%.

Như vậy, biến chuyển tình hình nông thôn Kiến An sau Cách mạng Tháng Tám là rất quan trọng. Những chính sách dân chủ của Đảng và Chính phủ gộp lại có giá trị nhất định ở mức độ nào đó trong việc thực hiện nhiệm vụ phản phong. Nó đã làm cho giai cấp địa chủ suy yếu cả về kinh tế và chính trị, ruộng đất phần lớn đã về tay nông dân, đời sống của nông dân lao động được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, giai cấp địa chủ dù có biến hóa một phần nhưng chưa phải đã bị đánh đổ, cơ sở kinh tế bị suy yếu nhưng chiếm hữu ruộng đất vẫn còn tương đối nhiều, bóc lột phong kiến đã bị


hạn chế nhưng chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Vì vậy, yêu cầu về ruộng đất của nông dân cần phải được giải quyết căn bản.

1.3. Chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ

Ngay trong thời kì vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ tầm quan trọng của giai cấp nông dân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Đến Hội nghị thành lập Đảng, trong Chánh cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, để đi tới xã hội cộng sản”[17, 2]. Về nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số nông dân, phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”, "Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo" [17, 3].

Luận cương chính trị tháng 10.1930 của Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ mang lại ruộng đất cho nông dân: “thực hành cách mạng thổ địa cho triệt để… Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và các giáo hội; giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất về chánh phủ công nông”[17, 95].

Chủ trương của Đảng trong thời kì này đã thể hiện nhận thức đúng đắn về vị trí của nông dân cũng như vấn đề ruộng đất ở một nước thuộc địa, đặt nó thành một nhiệm vụ chiến lược gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Từ năm 1939, tình hình thế giới có nhiều biến động, chiến tranh bùng nổ, thực dân Pháp tăng cường đàn áp và bóc lột nhân dân ta. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương ưu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên đầu “lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”[18, 538-539].


Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5.1941), Đảng ta xác định “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng [19, 119] Vì vậy, vấn đề ruộng đất, ta chủ trương chỉ tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, chủ trương chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức…

Trong thời kì cao trào kháng Nhật cứu nước, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập (6.1945). Chính quyền cách mạng ở khu giải phóng đã tiên phong thực hiện những chính sách của mặt trận Việt Minh, tịch thu ruộng đất của đế quốc, tay sai đem chia cho nông dân không có hoặc thiếu ruộng. Thực tế đó, cho phép người nông dân trong cả nước hy vọng vào một tương lai không xa: khẩu hiệu “người cày có ruộng” sẽ trở thành hiện thực.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để xây dựng kinh tế kháng chiến, đặc biệt là việc thực hiện chính sách ruộng đất nhằm đem lại quyền lợi kinh tế cho nông dân. Về vấn đề này, Hội nghị cán bộ lần thứ V (8.1945) khẳng định: Muốn xoá bỏ những tàn tích phong kiến, phát triển nông nghiệp, phải cải cách ruộng đất. Song xuất phát từ đặc điểm của cách mạng nước ta, phương thức tiến hành cách mạng ruộng đất là: “Dùng phương pháp cải cách mà dần thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến bản xứ lại (ví dụ giảm tô) đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất (trong phạm vi không có hại cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược)…đó cũng là một cách ta thực hiện cách mạng thổ địa bằng một đường lối riêng biệt”[20, 199].

Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến, từ năm 1949, Đảng đã chủ trương đẩy mạnh lên một bước việc thực hiện chính sách ruộng đất. Thực hiện chủ trương đó, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh, nghị định, thông


tư về chính sách ruộng đất, về giảm tô, giảm tức, như: Sắc lệnh 78/SL ngày 14.7.1949 ấn định mức địa tô và thành lập ở mỗi tỉnh một Hội đồng giạm tô; Sắc lệnh 75/SL ngày 1.7.1949 về tịch thu ruộng đất của những phạm nhân bị kết án làm phương hại đến nền độc lập quốc gia; Thông tư số 35/NV ngày 11.6.1949 quy định thể thức chia ruộng đất của Pháp kiều cho dân nghèo; Sắc lệnh 25/SL ngày 13.5.1950 quy định sử dụng ruộng đất vắng chủ; Sắc lệnh 88/SL ngày 22.5.1950 quy định thể lệ lĩnh canh ruộng đất; Sắc lệnh 89/SL ngày 22.5.1950 quy định việc giảm lãi, xoá nợ, hoãn nợ…

Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong thời kỳ này đã từng bước giải quyết một phần nhu cầu về ruộng đất cho nông dân. Tính chung lại từ cách mạng tháng Tám đến đầu năm 1953, ở miền Bắc, qua những cuộc cải cách từng phần, đã có tới 58,35% tổng số ruộng đất của thực dân và địa chủ cùng ruộng đất công đã được chuyển về tay nông dân [49, 72]. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc cải thiện đời sống nông dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến và thu hẹp thế lực của giai cấp địa chủ.

Riêng ở Kiến An, việc thực hiện chính sách ruộng đất gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của Kiến An là vùng địch chiếm đóng. Chủ yếu mới thực hiện ở những vùng du kích dưới hình thức vận động hiến điền, trưng vay cứu đói.

Bước sang năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là quân sự. Lực lượng vũ trang đã lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng, quân đội ta đã giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường. Điều kiện cho ta giành thắng lợi quyết định đang đến gần. Yêu cầu chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng trở nên cấp bách. Hơn bao giờ hết, việc huy động lực lượng của toàn dân mà phần lớn là nông dân là điều tối cần thiết. Muốn vậy, phải không ngừng bồi dưỡng lực lượng của nông dân, cải thiện đời sống của nông dân.


Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IV họp từ ngày 25 đến 30.1.1953, đã kiểm điểm chính sách ruộng đất của Đảng trong những năm kháng chiến. Hội nghị quyết định “Tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân” [21, 153]. Để thực hiện cải cách ruộng đất trong năm 1953 “cần phóng tay phát động quần chúng nông dân thực hiện triệt để giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô, nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng về kinh tế của nông dân… đập tan uy thế chính trị của địa chủ phong kiến, giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn” [21, 154].

Ngày 12.4.1953, Chính phủ ban hành sắc lệnh 149 – SL/TƯ quy định chính sách ruộng đất của Đảng. Tiếp đó, tháng 11.1953, Hội nghị Trung ương lần thứ 5 họp và thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng, nói rõ mục đích của cải cách ruộng đất: “Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, hoàn toàn giải phóng dân tộc. Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc…Nông dân yêu cầu được ruộng đất là một điều rất chính đáng, rất hợp với lợi ích giải phóng dân tộc. Chỉ có thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, làm cho hàng chục triệu nông dân hǎng hái tham gia kháng chiến, thì kháng chiến mới hoàn toàn thắng lợi, cách mạng chắc chắn thành công” [21, 574 - 575].

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Cương lĩnh nhấn mạnh đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn là “dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến


từng bước và có phân biệt, để phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến” [21, 431].

Đường lối trên thể hiện rõ quan điểm, thái độ của Đảng ta đối với từng giai cấp, tầng lớp ở nông thôn. Mục tiêu trực tiếp của cải cách ruộng đất là đánh đổ giai cấp địa chủ, xoá bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân. Điều đó không có nghĩa rằng đối tượng đấu tranh của cải cách ruộng đất là toàn bộ giai cấp địa chủ với mức độ như nhau, mà chỉ chủ yếu tập trung mũi nhọn vào hàng ngũ địa chủ đầu sỏ, phản động, gian ác trong giai cấp địa chủ, chiếu cố thích đáng những địa chủ tham gia và ủng hộ kháng chiến. Do đó, phương châm của Đảng là “thoả mãn yêu cầu nông dân, lại củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, lợi cho kháng chiến và lợi cho sản xuất. Vì vậy trong khi thực hiện cải cách ruộng đất đối với giai cấp địa chủ có phân biệt” [21, 431].

Về phương châm và phương pháp đấu tranh là “Làm cho quần chúng tự giác, tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân…Phóng tay phát động quần chúng nông dân; tổ chức giáo dục và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, thực hiện cải cách ruộng đất có kế hoạch, làm từng bước, đi đúng đường lối quần chúng. Tuyệt đối không dùng cách ép buộc mệnh lệnh” [21, 431].

Trên đây là đường lối chung, cơ bản của Đảng ta về thực hiện cải cách ruộng đất. Cụ thể, Cương lĩnh ruộng đất quy định đối với việc xử lý ruộng đất như sau :

“1. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác.

2. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản của bọn Việt gian phản quốc.


3. Tịch thu hoặc trưng thu (tuỳ tội nặng nhẹ) ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản của địa chủ phản động và cường hào gian ác.

4. Trưng thu ruộng đất công và ruộng đất nửa công nửa tư, bao gồm ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư văn, tư võ, ruộng các đoàn thể…

5. Trưng thu hoặc trưng mua (tuỳ trường hợp) ruộng đất của tôn giáo.

6. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản của ngoại kiều hợp tác với đế quốc xâm lược. Trưng thu ruộng đất trâu bò, nông cụ của những địa chủ ngoại kiều khác.

7. Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông cụ của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường, song địa chủ kháng chiến được chiếu cố một cách thích đáng” [21, 575].

Đối với những ruộng đất vắng chủ hoặc ruộng đất bỏ hoang thì xử lý theo hình thức trưng thu hoặc trưng mua.

Về đối tượng được chia ruộng đất bao gồm: bần, cố, trung nông, kể cả phú nông thiếu ruộng; các thành phần liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, quân nhân cách mạng; các tầng lớp nghèo khổ khác ở nông thôn; trong những trường hợp cụ thể vẫn sẽ chia cho gia đình người thân của địa chủ, nguỵ binh, ngoại kiều, nhà chùa, nhà thờ, ruộng họ…

Nguyên tắc chia như sau [21, 485 - 488]:

1. Không chia bình quân, thiếu nhiều chia nhiều, thiếu ít chia ít, không thiếu không chia.

2. Chia trên cơ sở nguyên canh, rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa.

3. Chia theo nhân khẩu chứ không chia theo sức lao động. Tuy nhiên đối với những hộ bần nông có ít người nhưng thừa lao động sẽ được chiếu cố chia hơn tiêu chuẩn một chút.

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 24/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí