Phạm Tội Điều Động Hoặc Giao Cho Người Không Đủ Điều Kiện Điều Khiển Phương Tiện Giao Thông Đường Thủy Không Có Các Tình Tiết Định Khung Hình

Đối tượng tác động của tội phạm này là người điều khiển phương tiện giao thông đường thủy không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy. Ví dụ: Một thuyền viên không có bằng lái được Thuyền trưởng giao cho lái tầu, nên đã gây tai nạn làm chết người


3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Người phạm tội này, là người thực hiện hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy.


Điều động là ra lệnh, phân công, chỉ thị cho người khác. Điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy là ra lệnh, chỉ thị hoặc phân công những người bị pháp luật cấm điều khiển phương tiện giao thông đường thủy.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.

Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao

thông đường thủy là giao phương tiện giao thông đường thủy cho những

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 15

người bị pháp luật cấm điều khiển phương tiện giao thông đường thủy.


b. Hậu quả


Hậu quả cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nếu hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thủy mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác và người thực hiện hành vi chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành

vi này hoặc đã bị thành tội phạm.

kết án về tội này, chưa được xoá án tích thì chưa cấu


Việc xác định thiệt hại cũng tương tự như đối với tội vi phạm các quy định an toàn giao thông tại các Điều 202, 203, 204, 205, 208, 209, 210,

211, 212, 213 và 214 Bộ luật hình sự.


Nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng thì người phạm tội bị khoản 3 của điều luật.

truy cứu trách nhiệm hình sự

theo khoản 2,

c. Các dấu hiệu khách quan khác


Ngoài hành vi khách quan, đối với tội điều động hoặc giao cho người

không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thủy,

nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như: Điều kiện đối với người điều khiển phương tiện giao thông đường thủy. Các điều kiện này được quy định tại Luật giao thông đường thuỷ nội địa.


Theo quy định tại Điều 29 Luật giao thông đường thuỷ nội địa thì, Thuyền viên làm việc trên phương tiện phải là người đủ 16 tuổi trở lên và không quá 50 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam; đue tiêu chuẩn sức khoẻ

và được kiểm tra sức khoẻ định kỳ hàng năm; có bằng lái, chứng chỉ

chuyên môn phù hợp với chức danh, loại phương tiện và tại Điều 8 Luật giao thông đường thuỷ nội địa quy định cấm bố trí thuyền viên, người lái phương tiện không có bằng, chứng chỉ chuyên môn hoặc bằng, chứng chỉ chuyên môn không phù hợp; cấm thuyền viên làm việc trên phương tiện khi

trong máu có nồng đọ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililit máu hoặc 40

miligam/1 lít khí thở hoặc có các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Cũng như đối với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông,

người thực hiện hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều

kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả, nhưng chủ yếu là vô ý vì quá tự tin).


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy không có các tình tiết định khung hình phạt


Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 215 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy, người phạm tội có thể bị phạt phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.

So với Điều 188 Bộ

luật hình sự

năm 1985 quy định về tội phạm

này, thì khoản 1 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 năng hơn, vì khoản 1 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt cảnh cáo và quy định hình phạt tiền là hình phạt nặng hơn hình phạt cảnh cáo và so sánh giữa Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 215 là điều luật nặng hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 215 Bộ luật hình sự, cũng như đối với các trường hợp phạm tội khác, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.


Cũng như đối với một số tội phạm khác, trong khi chưa có hướng

dẫn chính thức, có thể

vận dụng Thông tư

liên tịch số

02/2001/TTLT-

TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm

sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả

nghiêm trọng để xác định thiệt hại tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng đối với sức khoẻ, tài sản của người khác do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây ra mà không áp dụng Nghị quyết số 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về Điều 202 Bộ luật hình sự vì hành vi này cũng không trực tiếp gây ra hậu quả.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 215 Bộ luật hình sự


Khoản 2 Điều 215 Bộ

luật hình sự

chỉ

quy định một trường hợp

phạm tội đó là: “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”.


Gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy

gây ra là gây thiệt hại rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản cho người khác hoặc những thiệt hại rất nghiêm trọng khác cho xã hội.


Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất

nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều

kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ

gây ra, có thể

vận

dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây ra.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 2 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là quy định mới, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý, mà áp dụng

khoản 1 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu hậu quả định là rất nghiêm trọng.

gây ra được xác


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 215 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có

nhưng mức độ

tăng nặng không đáng kể, thì có thể

được áp dụng dưới

mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.


3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 215 Bộ luật hình sự


Khoản 3 Điều 215 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định một trường hợp phạm tội đó là: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”


Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường

thủy gây ra là gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản cho người khác hoặc những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng khác cho xã hội.


Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây ra, có thể vận dụng Thông

tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25

tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Bộ

Công an, Bộ Tư

pháp hướng dẫn áp dụng một số

quy định tại

Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây ra.


Phạm tội thuộc trường hợp quy định tạ khoản 3 của điều luật, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng. So với Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 3 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự và nặng hơn khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7- 2000 mới xử lý.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 215 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có

nhưng mức độ

tăng nặng không đáng kể, thì có thể

được áp dụng dưới

mức thấp nhất của khung hình phạt ( dưới bảy năm tù), nhưng không được dưới ba năm tù (xem Điều 47 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.


4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

So với Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 4 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn vì mức thấp nhất của hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm ( Điều 218 là từ hai năm), nên đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xét xử thì Toà án áp dụng khoản 4 Điều 215 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.


13. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐIỀU KHIỂN TẦU BAY

7


Điều 216. Tội vi phạm quy định điều khiển tầu bay


1. Người nào chỉ huy, điều khiển tầu bay mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường không, có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội gây hậu quả mười hai năm đến hai mươi năm.

đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Đnh Nghĩa: Vi phạm quy định điều khiển tầu bay là hành vi vi

phạm các quy định về an toàn giao thông đường không của người chỉ huy hoặc người điều khiển tầu bay có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời.


Tội vi phạm quy định điều khiển tầu bay cũng là tội phạm được tách từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải quy định tại Điều

186 Bộ

luật hình sự

năm 1985. Tuy nhiên, do tội phạm này chỉ quy định

một loại phương tiện là tầu bay và do tính chất đặc biệt của loại phương


7 Bộ luật hình sự dùng từ Tàu bay, còn Luật hàng không dân dụng dung từ Tầu bay. Để thống nhất, chúng tôi dùng tư Tầu bay theo Luật hàng không dân dụng

tiện này nên việc cấu tạo của điều luật cũng khác với các tội vi phạm an toàn giao thông khác.


Nếu ở các tội quy định tại các Điều 202, 208 và 212 Bộ luật hình sự cấu thành giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 4 của điều luật thì Điều 216 Bộ luật hình sự cấu thành giảm nhẹ lại được quy

định là cấu thành cơ bản của tội phạm. Do đó các dấu hiệu thuộc mặt

khách quan của tội phạm sẽ có nhiều điểm khác hẳn với các tội quy định tại các Điều 202, 208 và 212 Bộ luật hình sự. Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt cũng không giống với các tình tiết quy định tại các Điều 202, 208 và 212 Bộ luật hình sự.


So với Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 216 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau:


Không chỉ quy định hành vi điều khiển mà còn quy định cả hành vi chỉ huy, vì đặc điểm của loại phương tiện này khi vận hành còn phụ thuộc rất nhiều vào hành vi chỉ huy.


Không quy định các tình tiết là yếu tố khoản 2 Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985.

định khung hình phạt như


Tình tiết là yếu tố định tội quy định tại khoản 1 Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 thành tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật. Tuy nhiên, có sửa lại từ gây thiệt hại đén sức khoẻ thành “gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khoẻ”.


Bổ sung tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 3 của điều luật.


Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội; tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên tới ba năm.


Hình phạt bổ sung được quy định trong cùng điều luật.


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


Tội vi phạm quy định điều khiển tầu bay nói riêng và các tội phạm vi phạm an toàn đường không nói chung trong thực tế ít xẩy ra do tính chất quan trọng của loại phương tiện này, nên mọi biện pháp bảo đảm an toàn

được quy định và kiểm tra rất nghiêm ngặt, chỉ cần một sơ xuất nhỏ là có thể gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những vụ tai nạn máy bay gây chết nhiều người và về lý thuyết không thể không có hành vi vi phạm các quy định về an toàn hàng không, nên việc tìm hiểu các dấu hiệu của tội phạm vi phạm an toàn đường không nói chung và tội vi phạm quy định điều khiển tầu bay nói riêng không thể không đặt ra.


Như đã nêu ở phần trên, do tính chất và đặc điểm riêng của hành vi và phương tiện, nên tội phạm này có nhứng dấu hiệu riêng mà các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông khác không có


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người chỉ huy hoặc điều khiển tầu bay mới là chủ thể của tội phạm này.


Người điều khiển tầu bay là người trực tiếp điều khiển các loại máy bay, tầu lượn, khí cầu và những thiết bị bay tương tự khác có thể được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí gồm: Lái chính, lái phụ, dẫn đường trên không, cơ giới trên không và khai thác vô tuyến trên không.


Người chỉ huy tầu bay là người có quyền cao nhất trong tầu bay, chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn và khai thác tầu bay trong thời gian bay. Người chỉ huy tầu bay có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về việc cất cánh, bay, hạ cánh, huỷ bỏ chuyến bay, quay trở lại nơi cất cánh hoặc hạ cánh bắt buộc.


Người chỉ huy và người điều khiển tầu bay đều gọi là tổ bay, nhưng theo Luật hàng không thì tổ bay còn bao gồm: nhân viên bảo đảm an toàn

và nhân viên phục vụ trong tầu bay khi thực hiện chuyến bay. Những

người này không phải là chủ thể của tội vi phạm quy định điều khiển tầu bay, vì họ không phải là người chỉ huy hoặc người điều khiển.


2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm


Khách thể không.

của tội phạm này là trật tự

an toàn giao thông đường

Xem tất cả 321 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí