Giới hạn nghiên cứu đó là hoạt động áp dụng hình phạt ở cấp sơ thẩm, phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016 trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân nhân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của nghĩa Mac – Lê nin, cũng như học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền; đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp, theo tinh thần nghị quyết 48NQ/TW; 49NQ/TW của Bộ Chính trị về vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của TAND và các cơ quan tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của lộ trình cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử và lôgic, phương pháp thống kê, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là công trình nghiên cứu cơ bản và toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về vấn đề áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân trong thực tiễn xét xử. Đề tài đã phân tích và làm rò cơ sở lý luận về áp dụng hình phạt; cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án trên địa bàn cụ thể là huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Qua đó, đề tài đã đưa ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân trong thực tiễn xét xử.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội - 1
- Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội - 3
- Các Nội Dung Của Hoạt Động Áp Dụng Hình Phạt Của Tòa Án
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Kết Quả Áp Dụng Hình Phạt Trong Xét Xử Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình
phạt trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ nói riêng, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự của TAND đáp ứng nhu cầu công cuộc cải cách Tư pháp hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu trong tham khảo của các cán bộ làm công tác thực tiễn, nghiên cứu khoa học cũng như sinh viên và học viên các cơ sở đào tạo luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân tại huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của áp dụng hình phạt trong xét xử của Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân
Áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân trong xét xử hình sự trước hết là một hoạt động ADPL, nên nó có đầy đủ đặc điểm chung của ADPL, đồng thời cũng có tính đặc điểm chung thể hiện hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân. Đó là những quy phạm pháp luật hình sự - những quy phạm pháp luật có chế tài mạnh nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do và tài sản của con người, việc duy trì trật tự công cộng và chỉ duy nhất Tòa án có quyền áp dụng.
Hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án có những nội dung, tính chất tương tự như hoạt động quyết định hình phạt trong xét xử hình sự nhưng thể hiện ở mức độ rộng hơn. Bởi lẽ, áp dụng hình phạt trước hết là việc Tòa án xác định một mức hình phạt cụ thể theo các nguyên tắc, căn cứ được BLHS quy định cho các loại hình phạt tương ứng, với mỗi trường hợp tương ứng. Không những thế, áp dụng hình phạt còn bao gồm các hoạt động như: Miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp khác.
Việc áp dụng hình phạt được coi là vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của hoạt động xét xử hình sự của Tòa án nhân dân, áp dụng hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ Tòa án mới có quyền áp dụng hình phạt. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…”, Tòa án xét xử những vụ án hình sự (Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Điều
26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định".[42] Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng với người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Tòa án nhân dân có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho người phạm tội.
Áp dụng hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Áp dụng hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngược lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt được các mục đích đó. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc áp dụng hình phạt. Nếu Tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt như là phương tiện chủ yếu để trừng trị người phạm tội thì sẽ dẫn đến việc áp dụng hình phạt quá nặng. Trong trường hợp này, người phạm tội luôn luôn mang tư tưởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của mình, gây ra oán hờn và không tin tưởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành. Một hình phạt như vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho người phạm tội được cải tạo, giáo dục để hoàn lương, trở thành công dân có ích cho xã hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính người phạm tội và những người khác có thái độ coi thường pháp luật; không tạo ra sự tin tưởng, đồng tình cần thiết để giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Do vậy, áp dụng hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để áp dụng hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau như kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải được thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và được công bố một cách công khai khi tuyên án.
Hình phạt do tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhưng trong mọi trường hợp bao giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa, để bảo đảm sự tương xứng khi áp dụng hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân người phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do.
Hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án được tiến hành sau khi vụ án hình sự đã được giải quyết ở các khâu khác nhau, với những thủ tục tố tụng nhất định. Kết quả của áp dụng hình phạt Tòa án phải dựa trên kết quả của các hoạt động trước đó như hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố (đặc biệt là quyết định truy tố của Viện kiểm sát) và hoạt động đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trong quá trình này, Tòa án vẫn được quyền linh hoạt, chủ động tiến hành hoạt động áp dụng hình phạt sao cho đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ví dụ như Tòa án dựa trên mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát như đánh giá một cách khách quan, đầy đủ về các tình tiết của vụ án, đặc biệt là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án áp dụng một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn,
cũng có thể miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp tư pháo khác… Hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án là sự kết hợp của hoạt động áp
dụng BLHS (áp dụng pháp luật nội dung), và hoạt động áp dụng BLTTHS (là ADPL hình thức) của hoạt động giải quyết án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chứa đựng cả áp dụng quy phạm pháp luật nội dung và quy phạm pháp luật hình thức với mục đích bảo đảm áp dụng BLHS chính xác. Hoạt động đó bao gồm những bước đi theo trình tự tố tụng chặt chẽ, là tiền đề quan trọng để quyết định chính xác trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng, tạo ảnh hưởng tích cực trong việc trừng trị kết hợp giáo dục, cải tạo người phạm tội thành công dân có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Từ sự phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm áp dụng hình phạt của tòa án nhân dân như sau: Áp dụng hình phạt là một hình thức áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành, thể hiện ở việc Tòa án vận dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng loại và mức hình phạt đối với người bị kết tội nhằm giải quyết vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và được tiến hành ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân
Áp dụng hình phạt của Tòa án trong xét xử hình sự là hoạt động xác định sự thật khách quan của một vụ án cụ thể nhằm áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự đối với người phạm tội, đây là hoạt động đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quá trình áp dụng hình phạt phải tuân theo những nguyên tắc chung và quy trình chung, bên cạnh đó nó mang những đặc điểm riêng biệt, gồm các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng hình phạt trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, do Tòa án tiến hành được thực hiện bởi người có thẩm quyền là Hội đồng xét xử.
Tòa án là cơ quan duy nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có thẩm quyền xét xử. Tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân." [48]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, do các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành, trong đó hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua phiên tòa xét xử công khai, mọi kết quả điều tra, truy tố, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, được thẩm vấn, đối chất, tranh luận, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Trên cơ sở đánh giá toàn diện vụ án, Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Chỉ có Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước mới có quyền quyết định một người có tội hay không, tội danh được quy định tại điều khoản nào của BLHS và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng, đồng thời minh oan cho người không phạm tội bị truy tố. Trong đó hoạt động áp dụng hình phạt là hoạt động được tiến hành sau cùng trong quá trình áp dụng các quy định của BLHS nhằm đưa ra một loại hình phạt và mức hình phạt đối với bị cáo. Vì vậy hoạt động áp dụng hình phạt của Hội đồng xét xử là trọng tâm của hoạt động tố tụng hình sự. Các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử cũng như tại phiên tòa đều nhằm giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra một loại và mức hình phạt chính xác, đúng pháp luật.
Áp dụng hình phạt trong hoạt động xét xử án hình sự không chỉ tuân thủ những nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù do pháp luật hình sự, tố tụng hình sự quy định. Đó là các nguyên tắc: nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nguyên tắc hai cấp xét xử; nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; nguyên tắc
không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án…; Có triệt để tuân thủ các nguyên tắc trên thì hoạt động tố tụng mới đảm bảo khách quan, công bằng.
Chủ thể trực tiếp áp dụng hình phạt trong hoạt động xét xử bao giờ cũng là Hội đồng xét xử án hình sự. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Điều 185 BLTTHS năm 2003 quy định: "Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì thành phần Hội đồng xét xử gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm nhân dân"[45]. Các quyết định của Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm, chủ yếu là bản án hình sự sơ thẩm và sau khi tuyên án (ban hành) một thời gian nhất định, hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp luật.
Điều 244 BLTTHS năm 2003 quy định: "Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán, trong trường hợp cần thiết có thêm 2 Hội thẩm"[45]. Quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.
Theo quy định tại Điều 15, 16, 17 BLTTHS năm 2003 thì khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, Hội đồng xét xử cả sơ thẩm và phúc thẩm đều thảo luận và quyết định theo đa số. Vì vậy quyết định của Hội đồng xét xử là quyết định mang tính tập thể của đa số thành viên Hội đồng xét xử. Áp dụng hình phạt trong hoạt động xét xử của Tòa án dựa trên kết quả điều tra, truy tố của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, nhưng hoạt động xét xử là một giai đoạn tố tụng độc lập. Không chỉ căn cứ vào tài liệu chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập mà Hội đồng xét xử còn căn cứ vào quá trình thẩm tra, thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra các quyết định như: trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án, tuyên bố bị cáo vô tội hoặc có tội và cuối cùng nếu bị cáo bị coi là có tội thì phải áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt đối với bị cáo.
Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua phiên tòa xét xử, mà kết quả của hoạt động xét xử là một bản án (một văn bản ADPL) do Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuyên bố, khẳng định một công dân có