Bất Bình Đẳng Thu Nhập Nông Thôn – Thành Thị Phân Chia Theo Vùng


Trước hết, bời vì bất bình đẳng trong nội bộ nông thôn thì thấp hơn trong nội bộ thành thị trước khi gia nhập WTO, do vậy với cùng mức gia tăng thu nhập nào đó thì phân phối ở khu vực nông thôn sẽ công bằng hơn ở khu vực thành thị (do vậy phúc lợi ở khu vực nông thôn sẽ được hưởng nhiều hơn). Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hướng về khu vực nông thôn sẽ tạo ra sự phân phối công bằng hơn và có nhiều phúc lợi hơn là việc hướng đầu tư vào khu vực thành thị. Tuy nhiên, những năm gần đây thì nội bộ nông thôn lại có xu hướng cao hơn thành thị, do vậy chính sách hướng về nông thôn cũng phải xem xét hướng đầu tư vào ngành nào mà giải quyết được nhiều lao động cho người dân nông thôn.

Thứ hai, bất bình đẳng ngày càng biến động tuy nhiên có xu hướng giảm dần khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa hai khu vực nông thôn- thành thị (đo bằng chỉ số Theil T). Đặc biệt từ năm 2006 khi mà chúng ta tham gia hội nhập sâu với thế giới, do vậy muốn duy trì cũng như giảm bớt bất bình đẳng giàu nghèo thì chúng ta phải tập trung phân tích nguyên nhân, đưa ra các giải pháp để thu hẹp khoảng cách chênh lệch nông thôn –thành thị.

Tỷ lệ dân số cộng dồn


0

Thành thị Nông thôn

100%

50%

0

0

50000

100000

15000

Chi tiêu bình quân đầu người/tháng năm 2010.


Hình 2.1: Chênh lệch chi tiêu nông thôn – thành thị


Nguồn: tác giả tính toán dựa vào VHLSS các năm


Thành thị Nông thôn

100%

50%

0

0

10000

20000

30000

40000

50000

IV. Thu nhập bình quân đầu người/tháng năm 2010

Tỷ lệ dân số cộng

dồn


Hình 2.2: Chênh lệch thu nhập nông thôn – thành thị

Nguồn: tác giả tính toán dựa vào VHLSS các năm


Bất bình đẳng thu nhập nông thôn – thành thị phân chia theo các tiêu thức khác nhau

Nhìn chung vẫn có sự tồn tại chênh lệch lớn giữa nông thôn – thành thị. Để chứng minh chênh lệch nông thôn – thành thị không những tồn tại nói chung mà còn có sự chênh lệch nông thôn – thành thị ở tất cả các lĩnh vực đời sống qua các con số cụ thể sau:

Bất bình đẳng thu nhập nông thôn – thành thị phân chia theo vùng


Việt Nam phân chia lãnh thổ theo 8 vùng. Nhìn vào số liệu bảng 2.17 ta thấy, Vùng Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Hồng, Đồng Bằng Sông Cửu Long và Nam Trung Bộ, là 4 vùng giàu nhất. Sự giàu có của 4 vùng trên có thể lí giải là do ở Đồng Bằng sông Hồng có thủ đô Hà Nội (trung tâm kinh tế miền Bắc), Vùng Đông


Năm


Tiêu thức

1993

1998

2002

2004

2006

2008

2010

Tỷ lệ dân số nông thôn

80%

76.5%

76.6%

75.5%

74.9%

74.4%

70.1%

Chi tiêu bình quân đầu người ở thành thị/năm(nghìn đồng)

3058.229

4874.854

5953.634

7322.679

9279.586

11860.58

21934.8

Chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn/năm(nghìn đồng)

1692.291

2206.269

2725.056

3498.096

4746.367

5813.856

11402.4

Tỷ lệ chi tiêu thành thị -nông thôn

1.81

2.21

2.18

2.09

1.96

2.04

1.92

Thu nhập bình quân đầu người ở thành thị /năm(nghìn đồng)

3180.279

5133.113

7463.040

10126.04

13268.29

19256.136

25556.4

Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn/năm (nghìn đồng)

1656.874

2352.494

3301.800

5204.78

6887.592

9934.818

12846

Tỷ lệ thu nhập thành thị - nông thôn

1.92

2.18

2.26

1.95

1.93

1.94

1.99

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Tác động của hội nhập quốc tế lên bất bình đẳng thu nhập nông thôn - thành thị tại Việt Nam - 10

Nguồn: Tác giả tính toán dựa vào VHLSS các năm


67


năm


Chỉ tiêu


1993


1998


2002


2004


2006


2008


2010

%thay đổi 2010/2004


2010

Tỷ lệ nội bộ trong nhóm (%)

95.24%

91.67%

78.89%

83.11%

84.70%

87.3%

90.8%


90.8%

Trong nông thôn

0.39

0.29

0.536

0.239

0.264

0.334

0.390

+34,5%

0.390

Trong thành thị

0.41

0.37

1.040

0.258

0.255

0.322

0.281

+8.9%

0.281

Tỷ lệ giữa nông thôn – thành thị(%)

4.76%

8.33%

21.11%

16.89%

15.30%

12.73%

9.2%


9.2%

Mức chênh lệch giữa nông thôn – thành thị

0.04

0.06

0.0667

0.0613

0.0459

0.037

0.036

-40%

0.036

Nguồn: Tác giả tính toán dựa vào số liệu VLSS92,98 và VHLLS 2002-2008


68

69


Nam Bộ có Thành Phố Hồ Chí Minh (trung tâm kinh tế phía Nam), Miền Trung Nam Bộ có Đà Nẵng trung tâm kinh tế miền trung và Đồng Bằng Sông Cửu Long có Cần Thơ. Vùng nghèo nhất phải kể đến đó là vùng Tây Bắc,Bắc Trung Bộ

…đây là những vùng miền núi điều kiện phát triển kinh tế rất khó khăn. Tuy nhiên, xét về bất bình đẳng thu nhập giữa thành thị và nông thôn, cụ thể năm 2008 thì kết luận hoàn toàn trái ngược, vùng Đồng bằng song Cửu Long có mức bất bình đẳng thấp nhất, cao nhất lại là Vùng Tây Bắc (3.24 lần) kế tiếp là vùng Đông Bắc (2.13 lần), Bắc Trung Bộ (2,05 lần) và Đồng Bằng Sông Hồng 1.92 lần. Tuy nhiên, xu hướng có vẻ giảm dần theo các năm, riêng một số vùng lại có xu hướng gia tăng đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào đầu năm 2007 cụ thể Tây Bắc tăng 12,89%, Tây Nguyên 15.38% và Đông Nam Bộ 16,87% so với năm 2006. Nhìn vào Bảng 2.16 ta thấy xu hướng gia tăng bất bình đẳng thu nhập lại xảy ra ở những vùng nghèo, nguyên nhân có thể được lí giải những vùng này người dân sống có thu nhập cao thường sống ở các khu vực thành thị và họ có nhiều cơ hội tạo thu nhập hơn, họ được hưởng lợi nhiều chính sách của Nhà nước hơn là những người dân sống ở khu vực nông thôn (chênh lệch chi tiêu xem phụ lục 8).

Bất bình đẳng thu nhập nông thôn – thành thị theo hoạt động kinh tế


Chênh lệch nông thôn – thành thị theo các hoạt động kinh tế được minh họa ở bảng 2.18 và 2.19 (xem bảng phụ lục 10 đối với số liệu về chi tiêu). Như dự báo trước, các hộ gia đình có chủ hộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất. Ví dụ năm 2010 là 13154.84 nghìn đồng/năm so với năm 1998 là 2202.33 nghìn đồng/năm. Lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mà thu nhập bình quân đầu người là cao nhất với 43666.2 nghìn đồng/năm so với năm 1998 là 5301.88 nghìn đồng/năm, nhưng nếu xét về mức độ gia tăng của năm 2010 so với năm 1998 là hoạt động sản xuất, phân phối điện nước tăng nhiều nhất gần 700%, hoạt động tăng ít nhất hơn 300% là hoạt động công nghiệp và xây dựng. Nhìn chung, thu nhập bình quân đầu người hàng năm nếu xét theo các hoạt động kinh tế đều có xu hướng tăng và mức gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, xét về chênh lệch giữa nông thôn – thành thị, một số ngành có xu hướng giảm dần qua các năm đó là các


Bảng 2.17. Bất bình đẳng thu nhập nông thôn – thành thị phân chia theo vùng



Vùng


Năm

Năm 2002

Năm 2004

Năm 2006

Năm2008


Chi tiêu BQ (1000đ/năm)

Tỉ lệ chi tiêu thành thị/nông

thôn

Chi tiêu BQ (1000đ/năm)

Tỉ lệ chi tiêu thành thị/nông thôn

Chi tiêu BQ (1000đ/năm)

Tỉ lệ chi tiêu thành thị/nông thôn

Chi tiêu BQ (1000đ/năm)

Tỉ lệ chi

tiêu thành thị/nông thôn

1.Đồng bằng sông Hồng

4796.98

1.9

6492.18

2.04

8784.501

2.05

12953.74

1.94

2. Đông Bắc

3303.89

2.12

5098.68

2.17

6724.66

2.14

9499.813

2.13

3. Tây Bắc

2304.93

2.82

3621.65

2.47

5172.42

2.87

6859.10

3.24

4. Bắc trung bộ

2772.72

1.85

4138.44

1.80

5525.57

2.07

7811.28

2.05

5. Nam Trung Bộ

3766.40

1.67

5709.43

1.97

7743.12

1.95

10115.58

1.75

6. Tây Nguyên

2909.72

1.67

5174.14

1.60

6868.31

1.43

10007.15

1.65

7. Đông Nam Bộ

18450.73

4.8

10854.6

2.05

13531.08

1.66

21739.19

1.94

8. Đồng

Long

bằng

sông

Cửu

4135.78

1.51

6330.35

1.40

8372.71

1.37

12371.15

1.40

Nguồn: Tác giả tính toán dựa vào bộ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình các năm


70

71


ngành nông-lâm-ngư nghiệp, khai khoáng, các dịch vụ khác, còn một số ngành khác tăng dần đến năm 2006 nhưng lại có xu hướng giảm vào năm 2010, còn nếu như xét về mức chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn thấp nhất và cao nhất, năm 1998 ngành nông nghiệp là ngành có mức chênh lệch thu nhập thấp nhất là 1.19, năm 2002 hoạt động nông nghiệp cũng ngành có mức chênh lệch thu nhập thấp nhất là 1.36 lần và tương ứng năm 1998 cao nhất là hoạt động khai khoáng

10.2 lần, nhưng 2002 lại là lĩnh vực công nghiệp 3.88 nhưng hơn 10 năm sau thì bức tranh đã thay đổi năm 2010 ngành mà thu nhập giữa thành thị và nông thôn chênh lệch thấp nhất lại là ngành tài chính với 1.13 lần, ngành sản xuất và phân phối điện, nước và khí đốt là ngành có mức chênh lệch cao nhất (2,55) và năm 2002 tương ứng cũng là (2.02) mặc dù nếu so với các năm trước đó các con số này là giảm xuống. Bên cạnh đó, nếu so sánh mức chênh lệch của năm 2010 so với 2008 và tương ứng 2008 so với 2006 hoặc 2006 so với 2004 thì có sự thay đổi đáng kể, năm 2008 khi chúng ta đã chính thức gia nhập thương mại quốc tế chúng ta phải cam kết thực hiện các chính sách bảo hộ cũng như thuế quan, tuy nhiên năm 2008 vẫn chưa thực hiện cho nên một số ngành vẫn được bảo hộ một phần nào đó cụ thể ngành khai khoáng do vậy mức chênh lệch ngành này năm 2008 so với 2006 tăng hơn 100%, đến năm 2010 chúng ta đã chính thức gia nhập thương mại quốc tế được 4 năm và đã thực hiện các cam kết đã đưa ra do vậy mức chênh lệch giữa hai khu vực này hầu hết ở các hoạt động kinh tế là giảm, duy nhất chỉ có ngành sản xuất và phân phối điện nước là ngành có mức chênh lệch tăng so với năm 2008, lí do có thể do ngành này vẫn độc quyền, nhà nước bảo hộ nhiều và người hưởng lợi chủ yếu là cư dân thành thị do vậy xảy ra hiện tượng này.

Bất bình đẳng thu nhập nông thôn – thành thị theo nghề nghiệp


Bảng 2.20, bảng 2.21 trình bày kết quả chênh lệch thu nhập nông thôn – thành thị theo nghề nghiệp.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí