Nguyễn Anh Tuấn 15 năm tù, Nguyễn Duy Nam 15 năm tù, Vũ Ngọc Anh 10 năm tù, Nguyễn Quang Thành 09 năm tù đều về tội "Giết người".
Các đối tượng phạm tội có tổ chức, có sự bàn định kế hoạch, phân công từng người thực hiện hành vi phạm tội, với sự tham gia của nhiều người phân công vị trí, vai trò, công việc của nhiều người và chuẩn bị hung khí để phạm tội. Hành vi phạm tội mang tính chất côn đồ, các đối tượng nói trên đã dùng dao nhọn, chai nước, chân tay không đâm, đập đánh nhiều cái vào những người bị hại. Hậu quả làm anh Ngô Văn Thân bị chết. Việc anh Đinh và anh Giỏi không bị chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của các bị cáo.
Nguyễn Anh Tuấn là kẻ chủ mưu, khởi xướng, rủ rê, lôi kéo đồng phạm thực hiện tội phạm. Tuấn cũng là tên đưa dao, chỉ người cho đồng phạm đánh chém. Mặc dù khi phạm tội Tuấn 17 tuổi 8 tháng 19 ngày. Nhưng hình phạt áp dụng đối với Tuấn 15 năm tù là có phần nhẹ.
Bành Quốc Thủy nổi bật với vai trò là người đứng ra rủ rê, lôi kéo đồng phạm, đồng thời tổ chức phân công, chuẩn bị dao từ trước điều hành quá trình thực hiện tội phạm. Bản thân Thủy cũng trực tiếp đâm chém người khác. Hình phạt đối với Thủy là nhẹ.
Đối với trường hợp Nguyễn Duy Nam tham gia với vai trò đồng phạm tích cực, Nam là đối tượng cầm dao đâm anh Thân và anh Định, khi dao bị gãy cán thì tiếp tục dùng chân, tay đánh các nạn nhân; Vũ Ngọc Anh và Nguyễn Quang Thành tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức; Ngọc Anh và Thành cầm chai nước đập anh Thân và anh Định nên hình phạt áp dụng đối với các đối tượng là nhẹ.
Ví dụ 2
20h30 phút ngày 21-9-2004, sau khi uống rượu tại nhà bà Nẫm ở thôn Ia Rốc, xã Ia Kênh, thành phố Pleiku, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Đình Hai, Nguyễn Xuân Quang, Đinh Văn Lâm, Nguyễn Tấn Quang, cùng tên Hiệp (không rò họ, địa chỉ) rủ nhau đến ngồi chơi ở ven đường quốc lộ 14, gần
quán nhà bà Thu. Lúc này, có anh Tạ Văn Triển đi xe máy theo hướng từ Pleiku về Đức Cơ, khi đến đoạn đường trên, anh Triển dừng xe bên đường để đi vệ sinh. Thấy vậy, Lâm nói với cả bọn "nó kìa, ra vây, xin tiền tụi bay", cả bọn nhất trí, đến chỗ anh Triển và bao vây xung quanh anh Triển. Lâm nói với anh Triển "Ai cho tiểu ở đây, mất vệ sinh, phạt 50.000 đồng". Thấy đồng bọn của Lâm đông, đường vắng người, anh Triển sợ nên lấy ví ra để đưa cho Lâm 50.000 đồng. Thấy vậy, Nguyễn Tấn Quang nói "không phạt nữa, lấy hết luôn" và giật chiếc ví trên tay anh Triển. Anh Triển xin lại giấy tờ, Quang lục ví lấy hết tiền rồi trả lại ví cho anh Triển. Trong lúc Nguyễn Tấn Quang lấy tiền thì Nguyễn Anh Tuấn cầm tay trái anh Triển, lột lấy chiếc đồng hồ của anh Triển. Đến sáng hôm sau, Nguyễn Ngọc Sang đã được Lâm và đồng bọn kể lại toàn bộ việc chiếm đoạt tiền và đồng hồ của anh Triển. Tối ngày 22-9- 2004, Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai của Sang nhưng Sang không khai báo về hành vi phạm tội của bọn Lâm. Anh Tạ Văn Triển bị chiếm đoạt
2.550.000 đồng và 01 đồng hồ.
Tòa án đã kết án Đinh Văn Lâm, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Đình Hai, Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Tấn Quang tội "Cưỡng đoạt tài sản" và Nguyễn Ngọc Sang không phạm tội "Không tố giác tội phạm".
Có thể bạn quan tâm!
- Các Căn Cứ Quyết Định Hình Phạt Trong Đồng Phạm
- Thực Tiễn Quyết Định Hình Phạt Trong Đồng Phạm
- Số Lượng Các Vụ Án Có Đồng Phạm
- Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 - 13
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Vụ án xảy ra trong đêm tối tại vùng dân cư thưa thớt. Vào thời điểm Lâm và các đồng phạm thực hiện tội phạm không có người qua lại, các bị cáo đã dùng số đông áp đảo, với thái độ hung hãn đe dọa, có hành vi như giật ví, cầm tay người bị hại để lột đồng hồ. Tòa án kết án đối với các bị cáo Đinh Văn Lâm, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Đình Hai, Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Tấn Quang "Cưỡng đoạt tài sản" là đánh giá không đúng tính chất của hành vi phạm tội và áp dụng không đúng Bộ luật hình sự, từ sai lầm này dẫn đến việc tuyên bị cáo Nguyễn Ngọc Sang không phạm tội "Không tố giác tội phạm" là bỏ lọt tội phạm dẫn đến hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là nhẹ.
Ví dụ 3
Sáng ngày 22-10-2008 Chu Thị Bích Ngọc là chủ nhà nghỉ Hương Ngọc Thảo đã nhờ Phạm Văn Đức trông hộ nhà nghỉ và còn dặn Đức "nếu có khách đến thuê phòng thì thu tiền…và nếu khách có nhu cầu mua dâm thì thu mỗi khách 200.000 đồng và bảo Đỗ Văn Dũng đến quán cafe đón gái mại dâm về phục vụ khách". Khoảng 13 giờ cùng ngày do có khách yêu cầu nên Đức đã bảo Dũng đi đón hai gái bán dâm về nhà nghỉ để phục vụ khác; khoảng 13 giờ 10 phút, Đức lại gọi điện đến quán cafê do Lê Văn Hùng làm chủ để yêu cầu 03 gái bán dâm đến nhà nghỉ để phục vụ khách. Đến 14 giờ 15 phút cùng ngày, Công an đã bắt quả tang 05 đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại nhà nghỉ nêu trên.
Trong vụ án này Chu Thị Bích Ngọc bị kết án 36 tháng tù, Phạm Văn Đức bị kết án 60 tháng tù về tội "Chứa mại dâm" và 02 bị cáo khác.
Chu Thị Bích Ngọc là đầu vụ, Đức chỉ là người thực hành mà hình phạt 60 tháng tù. Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Ngọc thì mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm áp dụng đối với Ngọc là quá nhẹ.
Ví dụ 4:
Do có mâu thuẫn với ông Trần Văn Tiến (trú tại thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) trong việc thu mua phế liệu ở Khu công nghiệp Nội Bài, Hoa Anh Tuấn kể lại sự việc và nhờ Nguyễn Trọng Quyết (là anh họ của vợ Tuấn) đánh dằn mặt ông Tiến. Quyết đồng ý và bảo Tuấn chỉ nhà, mô tả đặc điểm của ông Tiến. Sau đó Quyết nhờ Ngô Sỹ Cường, Đỗ Khắc Uyên theo dòi để đánh ông Tiến. Quyết chở Uyên, Cường đến trước cửa nhà ông Tiến chỉ nhà, tả đặc điểm của ông Tiến cho Uyên, Cường biết và dặn Uyên, Cường đợi ông Tiến về đến cửa nhà, xác định đúng ông Tiến thì chém.
Đến khoảng 18 giờ ngày 22-10-2005, Cường chở Uyên đến đứng chờ ở gần nhà ông Tiến, khi đi Uyên mang theo 01 con dao tông dài khoảng 50cm. Khi ông Tiến đi xe máy về đến cửa nhà thì Uyên cầm dao xông đến chém nhiều nhát vào ông Tiến rồi lên xe máy của Cường đang đợi sẵn bỏ chạy. Ông Tiến bị thương và được gia đình đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn. Hậu quả ông Tiến bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 41%.
Đối với Hoa Anh Tuấn, Tòa án cấp sơ thẩm kết án 36 tháng tù về tội "Cố ý gây thương tích". Tòa án cấp phúc thẩm đã cho Hoa Anh Tuấn được hưởng án treo.
Trong vụ án này, Hoa Anh Tuấn mặc dù không phải là kẻ trực tiếp đánh, gây thương tích cho ông Tiến nhưng Tuấn là người chủ mưu, khởi xướng, tổ chức: chỉ nhà, chỉ mặt ông Tiến để các đồng phạm đánh và gây thương tích cho ông Tiến. Như vậy, Tuấn có vai trò phạm tội cao hơn các bị cáo khác và phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Hoa Anh Tuấn 36 tháng tù đã là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, việc bị cáo tổ chức cho đồng bọn vô cớ đánh ông Tiến còn là hành vi phạm tội có tính chất côn đồ. Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là thiếu sót. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho bị cáo hưởng án treo là đánh giá không đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự về chế định án treo và trái với hướng dẫn tại điểm b, d tiểu mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ - HĐTP ngày 2-10-2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật (ngày 22-10-2005, bị cáo cùng đồng phạm đã cố ý gây thương tích cho ông Tiến; ngày 27-5-2005, bị cáo lại cùng đồng phạm chống người thi hành công vụ và bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt 12 tháng tù.
3.3. HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM
Chế định quyết định hình phạt trong đồng phạm là một trong những chế định quan trọng của Luật hình sự Việt Nam. Mặc dù Bộ luật hình sự đã sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, một số quy phạm của chế định đồng phạm và chế định quyết định hình phạt nói riêng và quyết định hình phạt trong đồng phạm nói chung trong Bộ luật hình sự hiện hành, ở các mức độ khác nhau vẫn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn.
Hiện nay chế định quyết định hình phạt trong đồng phạm vẫn tồn tại một số vướng mắc cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện như sau:
Một là, Bộ luật hình sự năm 1999 không đề cập đến việc xử lý hình sự đối với nhóm tội phạm có tổ chức. Trong những năm vừa qua, cộng đồng quốc tế đó chứng kiến sự gia tăng của những hành vi phạm tội do các nhóm tội phạm có tổ chức thực hiện như: khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy, buôn bán người …, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cả về tài chính và con người ở hầu hết các nước trên thế giới. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà nước ta đó ký ngày 13/12/2000 và đang chuẩn bị làm thủ tục phê chuẩn quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc hỡnh sự hoỏ hành vi tham gia vào các tổ chức tội phạm (Điều 5). Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định một trong những công việc chính phải làm cho đến năm 2010 là: Thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phũng, chống tội phạm, đặc biệt là tội tham nhũng, tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu "xó hội đen".
Ở nước ta, trên thực tế cũng đó tồn tại một vài băng nhóm tội phạm mang tính chất xó hội đen, nhưng nhỡn chung theo quy định của Bộ luật hỡnh sự hiện hành về chế định đồng phạm (Điều 20) và chế định chuẩn bị phạm tội (Điều 17) thỡ khụng thể xử lý hỡnh sự được khi các băng nhóm này chưa có hành vi cụ thể chuẩn bị hoặc thực hiện một tội phạm cụ thể nào đó. Do vậy, xét
từ góc độ phũng ngừa - ngăn chặn thỡ trong trường hợp này chúng ta thường bị động, phải theo dừi, chờ đợi cho đến khi các băng nhóm này có hành vi phạm tội cụ thể thỡ mới xử lý được. Bộ luật hỡnh sự hiện hành chỉ cú một điều duy nhất (Điều 79) quy định về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, trong đó có đề cập đến việc xử lý hỡnh sự đối với người hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Quy định này nhằm tạo khả năng chủ động tấn công ngăn chặn sớm tội phạm, không để cho tội phạm cũng như hậu quả của nó xảy ra.Để đáp ứng yêu cầu chủ động tấn công, ngăn chặn những băng nhóm tội phạm có tổ chức, góp phần thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp mà Đảng đó đề ra, chúng tôi đưa ra một số kiến giải lập pháp, bổ sung thêm vào Điều 20 và Điều 245 Bộ luật hình sự như sau:
"Điều 20a. Nhóm tội phạm có tổ chức
1. Nhóm tội phạm có tổ chức là một nhóm gồm ba người trở lên, được tổ chức và tồn tại trong một thời gian nhất định để thực hiện tội phạm.
2. Người thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức phải chịu trỏch nhiệm hỡnh sự theo quy định tại Điều 245a Bộ luật này".
"Điều 245a. Tội thành lập hoặc tham gia nhúm tội phạm cú tổ chức
1. Người nào thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức để thực hiện các tội khủng bố, rửa tiền, buôn bán người, sản xuất, mua bán trái phép chất ma tỳy hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác, thỡ bị phạt như sau:
a) Người thành lập hoặc hoạt động đắc lực thỡ bị phạt tự từ hai năm đến bảy năm;
b) Người tham gia thỡ bị phạt cải tạo khụng giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Người phạm tội cũn cú thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm".
Hai là, Chế định đồng phạm chủ yếu đề cập đến trách nhiệm hình sự của người thực hành mà chưa đi sâu vào vai trò của những người đồng phạm khác. Bộ luật còn đề cập đến việc "nghiêm trị kẻ chủ mưu" nhưng qua thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp người thực hành nhiều khi bị áp dụng mức hình phạt nặng hơn. Vì vậy, cần quy định rò hơn về trách nhiệm hình sự của người thực hành, người xúi giục, người giúp sức, người chủ mưu.
Quy định rò hơn trách nhiệm hình sự của những người xúi giục, người giúp sức trong vụ án đồng phạm. Theo chúng tôi cần quy định như sau:
Điều 20. Đồng phạm
1...
2...
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người là người tạo những điều kiện tinh thần như hứa hẹn trước việc che giấu người phạm tội, hứa hẹn trước về việc mua, bán, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có hoặc tạo những điều kiện về vật chất như cung ấp công cụ, phương tiện cho việc thực hiện tội phạm.
Ba là, qua thực tiễn xét xử chúng ta thấy có nhiều vụ án đồng phạm, khi áp dụng hình phạt các bị cáo chịu cùng khung khoản mà điều luật quy định. Đối với các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì theo quy định của pháp luật có thể được áp dụng hình phạt nhỏ hơn nhưng không thấp hơn mức hình phạt thấp nhất của khung liền kề mà điều luật quy định. Như vậy, trong thực tế có điểm bất hợp lý. Ví dụ đối với các bị cáo bị kết án về tội "Tham ô" trong cùng vụ án đồng phạm. Các bị cáo này phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, trong đó có bị cáo tham gia với vai trò rất hạn chế so với các bị cáo khác (sửa 01 hóa đơn, không được chia số tiền chiếm đoạt...) nhưng vì đồng phạm nên bị áp
dụng khung hình phạt nhẹ nhất là khoản 3 Điều 278 (từ mười lăm năm đến hai mươi năm tù). Như vậy, nếu áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì bị cáo bị áp dụng hình phạt quá cao so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Mặt khác, nếu xử với mức hình phạt thấp, nhẹ quá thì không đúng với quy định của pháp luật hình sự. Qua thực tiễn làm công tác giám đốc thẩm các vụ án hình sự tôi nhận thấy có nhiều vụ án, hội đồng xét xử đã "xé rào", căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội để áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn (từ ba đến năm năm tù). Như vậy, hội đồng xét xử đã cá thể hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt.
Bốn là, việc quyết định hình phạt đối với người thực hành và những người cùng thực hành trong vụ án đồng phạm giống với cơ sở để quyết định hình phạt trong trường hợp tội phạm do một người thực hiện, nghĩa là việc thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại điều luật cụ thể Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Do vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, khi áp dụng pháp luật đối với những người này không cần viện dẫn Điều 20 Bộ luật hình sự về đồng phạm. Còn cơ sở để quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) là hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm trong sự kết hợp dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại điều luật về tội phạm cụ thể Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự với dấu hiệu của đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Để bảo đảm tính khoa học của việc quyết định hình phạt của những người đồng phạm, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 20 Bộ luật hình sự theo hướng quy định: khi viện dẫn điều luật để quyết định hình phạt của người thực hành và người cùng thực hành, không cần viện dẫn Điều 20 Bộ luật hình sự, còn đối với những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) thì khi viện dẫn điều luật để quyết định hình phạt đối với họ,