rộng lớn của IPv6 không chỉ cung cấp nhiều không gian địa chỉ hơn IPv4 mà còn có những cải tiến về cấu trúc. Với 128 bit, sẽ có 3,4.1038 địa chỉ. Một con số khổng lồ. Trong năm 1994, IETF đã đề xuất IPv6 trong RFC 1752. IPv6 khắc phục một số vấn đề như thiếu hụt địa chỉ, chất lượng dịch vụ, tự động cấu hình địa chỉ, vấn đề xác thực và bảo mật.
IPv6 ra đời không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn IPv4 (công nghệ mà hạ tầng mạng chúng ta đang dùng ngày nay). Vì là một phiên bản hoàn toàn mới của công nghệ IP, việc nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn luôn là một thách thức rất lớn. Một trong những thách thức đó liên quan đến khả năng tương thích giữa IPv6 và IPv4, liên quan đến việc chuyển đổi từ IPv4 lên IPv6, làm thế nào mà người dùng có thể khai thác những thế mạnh của IPv6 nhưng không nhất thiết phải nâng cấp đồng loạt toàn bộ mạng (LAN, WAN, Internet…) lên IPv6.
IP v4 có cấu trúc địa chỉ 32 bit, hiện nay đang sử dụng gần hết dải địa chỉ cho các hệ thống mạng trên toàn cầu. Để mở rộng địa chỉ mạng IP v6 đã ra đời nhằm khắc phục hạn chế trên. IP v6 dùng địa chỉ dạng 128 bit, hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho Internet. Theo các chuyên gia dự đoán có thể hết địa chỉ vào khoảng năm 2010 hay sớm
Version | Traffic Class (8 bit) | Flow Label (20 bit) | |||||
Payload Length (16 bit) | Next Header (8 bit) | Hop Limit (8 bit) | |||||
Source Address (128bit) | |||||||
Destination Address (128bit) |
Có thể bạn quan tâm!
- Quá Trình Truyền Thông Tin Giữa Các Trạm Kết Cuối Trong Tcp/ip
- Sơ Đồ Khối Chức Năng Của Một Hệ Thống Chuyển Mạch Atm
- Sơ Đồ Khối Mô Đun Đầu Vào (A) Và Mô Đun Đầu Ra (B)
- Mô Hình Kết Nối Theo Chuyển Mạch Ip
- Bảo Dưỡng Đường Dây Thuê Bao,đường Dây Trung Kế
- Mô Hình 7 Lớp Osi (A) Và Quá Trình Truyền Thông Giữa 2 Trạm (B)
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
0 4 8 12 16 20 24 28 31
hơn.
Hình 4.31 Tiêu đề gói tin IP v6
* Các trường thông tin trong IP v6
Phiên bản (Version 4bit): Xác định phiên bản của IP được sử dụng để tạo ra các
gói dữ liệu. Trường này được sử dụng giống như trong IPv4, nó mang giá trị 6 (0110 nhị phân).
Lớp lưu lượng (Traffic Class 8bit):
trường này thay thế
các loại của trường
kiểu dịch vụ
(TOS) trong tiêu đề
IPv4.
Nó được sử
dụng không giống như
trường
TOS định nghĩa ban đầu (với bit ưu tiên, D, T và R), nhưng dịch vụ phân biệt (DS)
phương pháp mới được định nghĩa trong RFC 2474. RFC đó thực sự xác định chất
lượng dịch vụ (QoS) kỹ thuật cho cả IPv4 và IPv6, xem mô tả định dạng IPv4 cho một bit thông tin.
Nhãn luồng (Flow Label 20bit): trường này được tạo ra để cung cấp hỗ trợ bổ sung cho việc phân phối gói dữ liệu thời gian thực và chất lượng các đặc tính dịch vụ. Khái niệm về luồng được định nghĩa trong RFC 2460 là một chuỗi các datagrams được gửi từ thiết bị nguồn tới một hoặc nhiều thiết bị đích. Một nhãn luồng duy nhất được sử dụng để xác định tất cả các datagrams trong một luồng cụ thể, giúp các bộ định tuyến giữa nguồn và tất cả điểm đích các xử lý theo cùng một cách thức, để đảm bảo tính thống nhất trong cách datagrams của luồng được thực hiện. Ví dụ, nếu hình ảnh video đang được gửi qua một liên mạng IP, các datagrams có chứa các luồng có thể
được xác định với một nhãn luồng để đảm bảo rằng chúng được cung cấp với độ trễ tối thiểu.
Không phải tất cả các thiết bị và các bộ định tuyến có thể hỗ trợ xử lý nhãn
luồng, và sử dụng trường này bởi một thiết bị nguồn là hoàn toàn tùy chọn. Ngoài ra, trường này vẫn đang được thử nghiệm và có thể được tinh chỉnh theo thời gian.
Độ dài phần tải trọng (Payload Length 16bit): trường này thay thế trường Tổng chiều dài của tiêu đề IPv4, nhưng nó được sử dụng khác nhau. Thay vì đo chiều dài của toàn bộ datagram, nó chỉ chứa số byte của tải trọng. Tuy nhiên, nếu bao gồm tiêu
đề mở
rộng, chiều dài của chúng được đếm theo thứ
tự. Đối với gói tin
đơn lẻ,
trường này đo chiều dài của gói dữ liệu nhỏ hơn 40 byte của phần tiêu đề.
Tiêu đề
tiếp theo (Next Header 8 bit): trường này thay thế
giao thức và các
trường có hai cách sử dụng. Khi một gói dữ liệu có tiêu đề mở rộng, trường này xác định tiêu đề mở rộng đầu tiên, đó là tiêu đề tiếp theo trong gói dữ liệu này. Khi một gói dữ liệu có chỉ tiêu đề "chính" và không có tiêu đề mở rộng, nó phục vụ cùng một mục đích là trường giao thức IPv4 cũ và có cùng một giá trị, mặc dù con số mới được sử dụng cho các phiên bản của giao thức IPv6. Trong trường hợp này "Next header" là tiêu đề của bản tin lớp trên mà các gói dữ liệu IPv6 mang đi.
Giới hạn từng chặng (Hop Limit 8bit): này thay thế các Thời gian Để trường (TTL) Live trong tiêu đề IPv4; tên của nó tốt hơn phản ánh cách mà TTL được sử dụng trong các mạng hiện đại (từ TTL là thực sự được sử dụng để tính hoa bia, không thời gian.)
Địa chỉ
nguồn (Source Address 128bit): 128bit IP địa chỉ
của người gửi
datagram này. Như với IPv4, điều này luôn luôn là thiết bị nguồn của các gói dữ liệu.
Địa chỉ đích (Destination Address 128bit): địa chỉ IP 128bit của người nhận dự định của các datagram; unicast, anycast hoặc multicast. Một lần nữa, mặc dù các thiết bị như router có thể là mục tiêu trung gian của các gói dữ liệu này, trường này luôn cho các điểm đến cuối cùng.
* Một số ưu điểm nổi trội của IP v6 là:
Các vấn đề về bảo mật, các tùy chọn của IP và hiệu suất định tuyến. Các ích lợi của IPv6 gồm: Tăng kích thước của không gian địa chỉ IP; tăng sự phân cấp địa chỉ; đơn giản hoá địa chỉ host (địa chỉ được thống nhất là: toàn cục, site và cục bộ) ; đơn giản hoá việc tự cấu hình địa chỉ (gồm DHCPv6 và neighbor discovery thay cho ARP broadcast); tăng độ linh hoạt cho định tuyến multicast; có thêm địa chỉ anycast; header được sắp xếp hợp lý; tăng độ bảo mật (vì có thêm các header mở rộng về bảo mật
giúp bảo đảm sự
toàn vẹn dữ
liệu); có tính di động tốt hơn (home agent; careof
address; và header định tuyến mở rộng); hiệu suất tốt hơn (việc tóm tắt địa chỉ; giảm
ARP broadcast; giảm sự mảnh gói tin; không có header checksum; QoS được tích hợp sẵn...).
Tăng kích thước của không gian địa chỉ:
phân
IPv6 sử dụng 128 bit địa chỉ trong khi IPv4 chỉ sử dụng 32 bit; nghĩa là IPv6 có tới 2128 địa chỉ khác nhau; 3 bit đầu luôn là 001 được giành cho các địa chỉ định tuyến toàn cầu (Globally Routable Unicast –GRU). Nghĩa là còn lại 2125 địa chỉ, nghĩa là có khoảng 4,25.1037 địa chỉ, trong khi IPv4 chỉ có tối đa 4,29.109 địa chỉ, nghĩa là IPv6 sẽ chứa 1028 không gian địa chỉ IPv4.
Tăng sự phân cấp địa chỉ:
IPv6 chia địa chỉ thành một tập hợp các không gian xác định hay boundary:Ba bit đầu cho phép biết được địa chỉ có thuộc địa chỉ khả định tuyến toàn cầu (GRU) hay
không, giúp các thiết bị
định tuyến có thể xử
lý nhanh hơn. Top level aggregation
(TLA) ID được sử dụng vì 2 mục đích: thứ nhất, nó được sử dụng để chỉ định một khối địa chỉ lớn mà từ đó các khối địa chỉ nhỏ hơn được tạo ra để cung cấp sự kết nối cho những địa chỉ nào muốn truy cập vào Internet; thứ hai, nó được sử dụng để phân biệt một đường (route) đến từ đâu. Nếu các khối địa chỉ lớn được cấp phát cho các nhà cung cấp dịch vụ và sau đó được cấp phát cho khách hàng thì sẽ dễ dàng nhận ra các mạng
chuyển tiếp mà đường đó đã đi qua cũng như
mạng mà từ
đó route xuất phát.
Với IPv6, việc tìm ra nguồn của 1 route sẽ rất dễ dàn Next level aggregator(NLA)
là một khối địa chỉ
được gán bên cạnh khối TLA, những địa chỉ
này được tóm tắt
lại thành những khối TLA lớn hơn, khi chúng được trao đổi giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong lõi internet, ích lợi của loại cấu trúc địa chỉ này là: thứ nhất là sự ổn
định về
định tuyến, nếu chúng ta có 1 NLA và muốn cung cấp dịch vụ
cho các
khách hàng, ta sẽ cố cung cấp dịch vụ đầy đủ nhất, tốt nhất; bên cạnh đó, chúng ta
cũng muốn cho phép các khách hàng của chúng ta nhận được đầy đủ bảng định
tuyến nếu họ muốn để tạo việc định tuyến theo chính sách; cân bằng tải... để thực hiện việc này chúng ta phải mang tất cả các đường trong backbone để có thể chuyển cho họ.
Đơn giản hoá việc đặt địa chỉ host: IPv6 sử dụng 64 bit sau cho địa chỉ host,và trong 64 bit đó thì có cả 48 bit là địa chỉ MAC của máy, do đó phải đệm vào đó một số bit đã được định nghĩa trước mà các thiết bị định tuyến sẽ biết được những bit này trên subnet, ngày nay, ta sử dụng chuỗi 0xFF và 0xFE (:FF:FE: trong IPv6) để đệm vào địa chỉ MAC. Bằng cách này, mọi host sẽ có một host ID duy nhất trong mạng. Sau này nếu đã sử dụng hết 48 bit MAC thì có thể sẽ sử dụng luôn 64 bit mà không cần đệm.
Việc tự cấu hình địa chỉ đơn giản hơn: một địa chỉ multicast có thể được gán cho nhiều máy, địa chỉ anycast là các gói anycast sẽ gửi cho đích gần nhất (một trong
những máy có cùng địa chỉ) trong khi multicast packet được gửi cho tất cả chung địa chỉ (trong một nhóm multicast).
máy có
Kết hợp host ID với multicast ta có thể sử dụng việc tự cấu hình như sau: khi một máy được bật lên, nó sẽ thấy rằng nó đang được kết nối và nó sẽ gửi một gói multicast vào LAN; gói tin này sẽ có địa chỉ là một địa chỉ multicast có không gian cục bộ(Solicited Node Multicast address). Khi một router thấy gói tin này, nó sẽ trả lời một địa chỉ mạng mà máy nguồn có thể tự đặt địa chỉ, khi máy nguồn nhận được gói tin trả lời này, nó sẽ đọc địa chỉ mạng mà router gửi, sau đó, nó sẽ tự gán cho nó một địa chỉ
IPv6 bằng cách thêm host ID (được lấy từ
địa chỉ
MAC của interface kết nối với
subnet đó) với địa chỉ mạng => tiết kiệm được công sức gán địa chỉ IP.
Tăng độ linh hoạt cho định tuyến multicast:
Đặt trường hợp: giám đốc muốn gửi một hội nghị truyền hình đến các nhân viên
trong công ty mà không muốn gửi tất cả
mọi người trong internet (chỉ
gửi những
người cần xem), lúc đó, IPv6 có một khái niệm về không gian vực multicast. Với IPv6, bạn có thể thiết kế một luồng multicast xác định chỉ được gửi trong một khu vực nhất định và không bao giờ cho phép các packet ra khỏi khu vực đó.
Bit đầu luôn được thiết lập là 1 giúp các thiết bị định tuyến biết được gói tin này là một gói tin multicast. 4 bit sau là flag (hiện tại, 3 bit đầu không được định nghĩa và luôn là 0, bit thứ tư là T bit được sử dụng để quyết định xem địa chỉ multicast này là địa chỉ được gán lâu dài (được gọi là wellknown) hay tạm thời (transient). 4 bit tiếp theo là scope, xác định gói tin multicast có thể đi bao xa, trong khu vực nào thì gói tin được định tuyến; scope có thể có các giá trị sau: 1(có không gian trong nội bộ node); 2 (có không gian trong nội bộ liên kết); 5 (có không gian trong nội bộ site); 8 (có không
gian trong nội bộ
tổ chức); E (có không gian toàn cục). Tuỳ
vào cách gán địa chỉ
multicast, chúng ta có thể kiểm soát các gói tin multicast được đi bao xa, và các thông tin định tuyến kết hợp với các nhóm multicast được quảng bá bao xa. Ví dụ: nếu chúng ta muốn quảng bá một multicast trong văn phòng của ta, và muốn toàn thế giới thấy nó, ta sẽ gán không gian cho nó là E (110), tuy nhiên, nếu bạn muốn tạo một nhóm multicast cho một hội nghị truyền hình bạn có thể gán không gian là 5 hay 2.
Địa chỉ Anycast:
IPv6 định nghĩa một loại địa chỉ mới: anycast. Một địa chỉ anycast là một địa chỉ IPv6 được gán cho một nhóm các máy có chung chức năng, mục đích. Khi packet được gửi cho một địa chỉ anycast, việc định tuyến sẽ xác định thành viên nào của nhóm sẽ nhận được packet qua việc xác định máy gần nguồn nhất. Việc sử dụng anycast có 2
ích lợi: một là, nếu bạn đang đến một máy gần nhất trong một nhóm, bạn sẽ tiết
kiệm được thời gian bằng cách giao tiếp với máy gần nhất; thứ hai là việc giao tiếp với máy gần nhất giúp tiết kiệm được băng thông.
Địa chỉ
anycast không có các không gian địa chỉ
được định nghĩa riêng như
multicast, mà nó giống như một địa chỉ unicast, chỉ có khác là có thể có nhiều máy khác cũng được đánh số với cùng scope trong cùng một khu vực xác định. Anycast được sử dụng trong các ứng dụng như DNS...
Header hợp lý:
Header của IPv6 đơn giản và hợp lý hơn IPv4. IPv6 chỉ có 6 trường và 2 địa chỉ, trong khi IPv4 chứa 10 trường và 2 địa chỉ. IPv6 header có dạng hình 4.30. IPv6 cung cấp các đơn giản hoá sau:
+ Định dạng được đơn giản hoá: IPv6 header có kích thước cố định 40 octet với ít trường hơn IPv4, nên giảm được overhead, tăng độ linh hoạt.
+ Không có header checksum: trường checksum của IPv4 được bỏ đi vì các liên kết ngày nay nhanh hơn và có độ tin cậy cao hơn vì vậy chỉ cần các host tính checksum còn router thì khỏi cần.
+ Không có sự phân mảnh theo từng hop: trong IPv4, khi các packet quá lớn thì router có thể phân mảnh nó, tuy nhiên việc này sẽ làm tăng thêm overhead cho packet. Trong IPv6 thì chỉ có host nguồn mới có thể phân mảnh một packet theo các giá trị thích hợp dựa vào một MTU path mà nó tìm được, do đó, để hỗ trợ host thì IPv6 chứa một hàm giúp tìm ra MTU từ nguồn đến đích.
Bảo mật:
IPv6 tích hợp tính bảo mật vào trong kiến trúc của mình bằng cách giới thiệu 2 header mở rộng tùy chọn: Authentication header(AH) và Encrypted Security Payload (ESP) header. Hai header này có thể được sử dụng chung hay riêng để hỗ trợ nhiều chức năng bảo mật.
+ AH: quan trọng nhất trong header này là trường Integriry Check Value (ICU). ICU được tính bởi nguồn và được tính lại bởi đích để xác minh. Quá trình này cung cấp việc xác minh tín toàn vẹn và xác minh nguồn gốc của dữ liệu. AH cũng chứa cả một số thứ tự để nhận ra một tấn công bằng các packet replay giúp ngăn các gói tin được nhân bản.
+ ESP header: ESP header chứa một trường: security parameter index (SPI) giúp đích của gói tin biết payload được mã hoá như thế nào. ESP header có thể được sử dụng khi tunneling, khi tunnelling thì cả header và payload gốc sẽ được mã hoá và bỏ vào một ESP header bọc ngoài, khi đến gần đích thì các gateway bảo mật sẽ bỏ header bọc ngoài ra và giải mã để tìm ra header và payload gốc.
Tính di động:
IPv6 hỗ trợ tốt các máy di động như laptop. IPv6 giới thiệu 4 khái niệm giúp hỗ
trợ tính toán di động gồm: Home address; careof address; binding; home agent.
Trong IPv6 thì các máy di động được xác định bởi một địa chỉ home address mà không cần biết hiện tại nó được gắn vào đâu. Khi một máy di động thay đổi từ 1 subnet này sang subnet khác; nó phải có một careof address qua một quá trình tự cấu hình. Sự kết hợp giữa home address và careof address được gọi là một binding. Khi một máy di động nhận được 1 careof address, nó sẽ báo cho home agent của nó bằng gói tin được gọi là binding update để home agent có thể cập nhật lại binding cache của home agent về careof address của máy di động vừa gửi. Home agent sẽ duy trì một ánh xạ giữa các home address và careof address và bỏ nó vào binding cache. Một máy di động có thể được truy cập bằng cách gửi một packet đến các home address của nó.
Nếu máy di động không được kết nối trên subnet của home agent thì home agent sẽ gửi packet đó cho máy di động qua careof address của máy đó trong binding cache của home agent (Lúc này,home agent được xem như máy trung gian để máy nguồn có thể đến được máy di động). Máy di động sau đó sẽ gửi một gói tin binding update cho máy
nguồn của gói tin. Máy nguồn sau đó sẽ cập nhật binding cache của nó, thì sau này máy nguồn muốn gửi đến máy di động, chỉ cần gửi trực tiếp đến cho máy di động qua careof address chứa trong binding cache của nó mà không cần phải gửi qua home address. Do đó chỉ có gói tin đầu tiên là qua home agent.
Tính tương thích
IPv6 có khả năng tương thích ngược với IPv4 để các mạng khác nhau hoặc các nhà sản xuất phần cứng có thể chọn để nâng cấp vào các thời điểm khác nhau mà không làm gián đoạn dòng chảy hiện tại của dữ liệu trên Internet. Đáp ứng được sự phụ thuộc của thế giới trên Internet và Web tin tức, thương mại, an toàn công cộng, an ninh quốc gia. Đây là một tính năng quan trọng của IPv6. Cuối cùng rồi thì tất cả các thiết bị IPv4 sẽ được thay thế và IPv6 sẽ là địa chỉ giao thức duy nhất được sử dụng. Tuy nhiên, có thể mất hàng thập kỷ, do đó, tính tương thích ngược sẽ rất quan trọng cho tương lai.
Hiệu suất: Cách mà các gói tin IP và phần tiêu đề được hình thành cũng như quá trình định tuyến các gói tin đã thay đổi trong cách thức IPv6 , nhằm cải thiện hiệu suất
. Kết quả đạt được là ít bị mất hoặc bị đánh rơi gói tin,,tin cậy và hiệu quả trong các kết nối. Với nhiều người hơn và nhiều các thiết bị chia sẻ Internet hơn , nhu cầu cao hơn cho VoIP (thoại qua IP) và video, hiệu suất sẽ càng quan trọng hơn bao giờ hết.
* IPv6 cung cấp các lợi ích sau:
Giảm được overhead vì chuyện dịch địa chỉ: vì trong IPv4 có sử dụng private address để tránh hết địa chỉ, do đó xuất hiện kỹ thuật NAT để dịch địa chỉ, nên tăng overhead cho gói tin. Trong IPv6 do không thiếu địa chỉ nên không cần private address, nên không cần dịch địa chỉ.
Giảm được overhead do định tuyến: nhiều khối địa chỉ IPv4 được phân phát cho các user nhưng lại không tóm tắt được, nên phải cần các entry trong bảng định tuyến làm tăng kích thước của bảng định tuyến và thêm overhead cho quá trình định tuyến, ngược lại, các địa chỉ IPv6 được phân phát qua các ISP theo một kiểu phân cấp địa chỉ giúp giảm được overhead.
Tăng độ ổn định cho các đường: trong IPv4, hiện tượng route flapping thường xảy ra, trong IPv6, một ISP có thể tóm tắt các router của nhiều mạng thành một mạng đơn và chỉ quản lý mạng đơn đó và cho phép hiện tượng flapping chỉ ảnh hưởng đến nội bộ của mạng bị flapping.
Giảm broadcast: trong IPv4 sử dụng nhiều broadcast như ARP, trong khi IPv6 sử dụng neighbor discovery để thực hiện chức năng tương tự trong quá trình tự cấu hình mà không cần sử dụng broadcast.
Multicast có giới hạn: trong IPv6, một địa chỉ multicast có chứa một trường
scope có thể hạn chế các gói tin multicast trong các node, trong các link, hay trong một tổ chức. Multicasting so với phát thanh truyền hình: địa chỉ IPv4 hiện đang xác định phát sóng cho các hoạt động địa chỉ mạng; với IPv6 sẽ không cần phải xác định địa chỉ quảng bá. Thay vào đó, IPv6 hoàn thành phát sóng với một thực hiện mới của multicast giải quyết mà không làm xáo trộn tất cả các giao diện vào một liên kết.
Không có checksum.
TTL: Trong IPv6, các trường TTL đã được thay thế bởi một trường HopLimit. Trong một kịch bản IPv4 thường lệ, TTL trường cho biết số bước nhảy router được bảo vệ. Dữ liệu này có thể được giải thích từ yêu cầu Ping. Dưới đây là một phản ứng mẫu thu được từ một yêu cầu ping đến www.google.com
Reply from 216.239.61.104: bytes = 32 time = 66ms TTL = 240
Mỗi lần qua một nút mạng router; giá trị của TTL được giảm đi 1. Trong kịch bản này, giá trị khởi đầu của bộ định tuyến sẽ là 255.
Kích thước tải trọng: Hiện nay được sử dụng giới hạn các gói tin IPv4 đến 64 Kb (1KB = 1024 bytes). IPv6 mặt khác đã hỗ trợ tùy chọn cho các gói tin trên giới hạn này, có thể lớn như 4 GB. Điều này sẽ dẫn đến sử dụng hiệu quả hơn của băng thông rộng.
IPv6 cho phép nhiều khả năng mới, bao gồm một hệ thống định vị địa lý mới có đường lên địa chỉ IPv6 với hình vuông hoặc hình lục giác trên bề mặt của trái đất, trong một vĩ độ mới và cuốn tiểu thuyết và hệ thống kinh độ có thể được thu nhỏ lại đến độ chi tiết gần như kính hiển vi.
phân bổ nguồn lực hỗ trợ IPv6. IPv6 cung cấp một cơ chế gọi là Flow Label cho phân bổ nguồn lực. Flow nhãn cho phép mã nguồn để gửi yêu cầu cho việc xử lý đặc biệt của một gói. Cơ chế này thực sự hữu ích trong âm thanh thời gian thực và truyền video.
tốt hơn tiêu đề định dạng:. Các tiêu đề của IPv6 đã được thiết kế theo một cách để tăng tốc quá trình định tuyến. Trong header của IPv6 được phân chia tùy chọn từ các tiêu đề cơ bản. Tùy chọn được chèn vào tiêu đề cơ bản khi yêu cầu dữ liệu trên lớp.
4.3.3.1.3 Cách thức đóng gói tin IP
Hình 4.32 Cách thức đóng gói IP
4.3.3.1.4 Cách thức phân mảnh cho các gói dữ liệu
Hình 4.33 Cách thức phân mảnh gói dữ liệu IP v6
Hình 4.34 Cách thức phân mảnh gói dữ liệu IP v4
4.3.3.2 Nguyên lý chuyển mạch IP
4.3.3.2.1 Nguyên lý chuyển mạch IP
Điều khiển bộ xử lý định tuyến IP được ghép với chuyển mạch ATM và cho phép chuyển mạch IP như một giao thức của bộ định tuyến IP thông thường và thực hiện truyền gói trên nguyên tắc từng chặng (1). Khi Luồng dữ liệu lớn xuất hiện giám sát bộ xử lý định tuyến IP sẽ báo hiệu cho luồng truyền trạm kế tiếp phía trên để gán nhãn của một tuyến ảo/ luồng ảo cho các tế bào của luồng và sau đó sẽ cập nhật vào bảng định tuyến ở chuyển mạch ATM có liên quan. Gửi giao thức IFMP tới trạm phát (2). Tiến trình này xảy ra độc lập giữa các cặp chuyển mạch IP phụ thuộc vào tuyến kết nối. Nó trở thành nhiệm vụ đơn giản trong kết nối ở các bảng định tuyến chuyển mạch IP. Khởi tạo một kết nối có theo các bước trên hình 4.28.
Nếu luồng đến được biên dịch, nó sẽ gửi tiếp các gói của luồng trên một Kênh ảo rỗi với một nhận dạng kênh ảo (3) Luồng ra có thể giám sát trên cùng một luồng và yêu cầu chuyển mạch IP hiện thời sử dụng một VCI cho nó. (4)
Sau đó bộ điều khiển chuyển mạch IP chỉ dẫn chuyển mạch ATM tạo bản đồ cổng cho luồng đó. Các số liệu tiếp theo sẽ được chuyển mạch trực tiếp trên phần cứng của chuyển mạch ATM. (5)