1.1.2. Chuyên đề tốt nghiệp đại học, luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ
Ngoài các công trình trên còn có các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ cũng đề cập tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước, hoặc một số địa phương.
- Luận án tiến sĩ: “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thủ đô Hà Nội đến năm 2020” của tác giả Nguyễn Đình Dương đã phân tích sâu sắc quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đô Hà Nội qua nhiều thời kỳ từ những năm 1954 về trước và từ 1954 đến nay. Qua đó tác giả chỉ ra sự chuyển biến rò rệt trong từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế hoạt động trong cơ cấu kinh tế của thủ đô Hà Nội. Đồng thời chỉ ra những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thủ đô để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thủ đô đến năm 2020 nói riêng và góp phần tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung.
Có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam và các địa phương khác nhau; trong khi quá trình nghiên cứu mang tính chất lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Tuyên Quang còn chậm và yếu về nhiều mặt; chưa có những giải pháp tối ưu và đồng bộ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh. Do vậy, việc nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Tuyên Quang của tác giả là phù hợp, độc lập và không trùng lặp.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.2.1. Cơ cấu kinh tế ngành
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Tuyên Quang - 1
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Tuyên Quang - 2
- Các Tiêu Chí Phản Ánh Sự Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành
- Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Chi Phối Sự Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành Của Tỉnh Tuyên Quang
- Hiện Trạng Sử Dụng Đất Của Tỉnh Tuyên Quang Tại Thời Điểm 01/01/2014
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Mỗi nền kinh tế đều được hình thành bởi rất nhiều các yếu tố, các bộ phận khác nhau. Các yếu tố, bộ phận này đều có mối quan hệ hữu cơ biện chứng thường xuyên vận động trong những điều kiện tự nhiên, xã hội cụ thể gắn với không gian, thời gian nhất định được thể hiện cả về định tính lẫn định lượng, phù hợp với xu hướng vận động và phát triển của nền kinh tế. Tổng thể các yếu tố, các bộ phận đó cùng mối quan hệ hữu cơ biện chứng xác định một cơ cấu kinh tế.
Nội dung chủ yếu của cơ cấu kinh tế:
- Cơ cấu ngành (xét trên giác độ phân công lao động theo ngành)
- Cơ cấu vùng (xét trên giác độ phân công lao động theo lãnh thổ hoặc theo vùng lãnh thổ hay còn gọi là theo không gian địa lý.)
- Cơ cấu thành phần kinh tế (xét theo quan hệ sở hữu)
- Cơ cấu kinh tế - kỹ thuật (xét về trình độ kỹ thuật)
- Cơ cấu xuất nhập khẩu (thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế đối với thế giới)
- Ngoài ra, trong quá trình phát triển kinh tế cơ cấu kinh tế còn được nghiên cứu, xem xét theo sự phân bố nguồn lao động trong nền kinh tế (cơ cấu lao động), theo khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai (cơ cấu đầu tư), theo quy mô (cơ cấu quy mô), theo phân cấp quản lý (cơ cấu kinh tế trung ương, cơ cấu kinh tế địa phương), cơ cấu kinh tế đóng, cơ cấu kinh tế mở.
Cơ cấu kinh tế ngành là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của nền kinh tế được sắp xếp
theo một tương quan tỷ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu kinh tế ngành thể hiện số lượng, tỷ trọng của các ngành (lĩnh vực) hợp thành nền kinh tế.
Dưới góc độ ngành, cơ cấu kinh tế được xem xét theo ba mặt chủ yếu:
* Thứ nhất, cơ cấu theo ba nhóm ngành lớn
Đây là cách phân ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts – SNA). Theo cách này, các ngành kinh tế được phân thành ba nhóm ngành lớn: 1. Nông nghiệp, 2. Công nghiệp – xây dựng, 3. Dịch vụ. Mỗi ngành được tập hợp bởi các xí nghiệp có những đặc tính kỹ thuật kinh tế giống nhau, ngành tồn tại dưới các cấp vị khác nhau. Ngành cấp I, ngành cấp II hay phân ngành của ngành cấp II . Các ngành cấp I hay các ngành lớn kết hợp với nhau được nên cơ cấu ngành của nền kinh tế. Các phân ngành kết hợp với nhau tạo nên cơ cấu nội bộ ngành lớn.
Đây cũng là góc độ tiếp cận được sử dụng để phân tích cơ cấu kinh tế ngành trong luận văn này.
* Thứ hai, cơ cấu theo hai nhóm ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp (dựa trên phương thức và công nghệ tạo ra sản phẩm). Khi nhóm ngành phi nông nghiệp càng phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn trong nền kinh tế thì biểu hiện nền kinh tế càng phát triển trình độ cao. Theo các nhà kinh tế phát triển khi các ngành phi nông nghiệp chiếm khoảng 85% lao động xã hội và hơn 80% GDP thì đó là quốc gia phát triển.
* Thứ ba, cơ cấu theo hai nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và sản xuất sản phẩm dịch vụ (dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng). Nhóm ngành sản xuất vật chất là tổng hợp các ngành sản xuất ra của cải vật chất phục vụ đời sống con người, là nơi tạo ra sản phẩm xã hội. Còn nhóm ngành
sản xuất phi vật chất là tổng hợp các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống xã hội.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.2.2.1. Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là quá trình thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có thể đưa vào những ngành mới (sản phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại ra những ngành (sản phẩm, dịch vụ) không còn phù hợp, hoặc có thể chuyển dịch theo hướng tăng hay giảm tỷ trọng của một ngành (sản phẩm, dịch vụ) nào đó. Đó là quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang cơ cấu kinh tế hợp lý, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ, nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự thay đổi như vậy không đơn giản chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành và tỷ trọng mỗi ngành, mà còn bao gồm cả sự thay đổi vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ ngành.
1.2.2.2. Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Một cơ cấu kinh tế ngành hợp lý phải phản ánh sự tác động và phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. Vai trò của yếu tố chủ quan là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó mà người ta phân tích, đánh giá những xu thế phát triển khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn, để tìm ra những phương án thay đổi cơ cấu có hiệu lực cao nhất trong những điều kiện cụ thể của đất nước. Mọi ý định chủ quan, nóng vội hay bảo thủ trong việc tạo ra sự thay đổi cơ cấu thường dẫn đến những tai họa không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
Bản thân cơ cấu kinh tế ngành mang tính lịch sử, xã hội; do vậy nó luôn biến động gắn với sự phát triển không ngừng của chính bản thân các yếu tố cấu thành nên cơ cấu. Nền kinh tế chỉ phát triển khi giữa những bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội xác lập được những quan hệ cân đối – những tỷ lệ của phân công lao động xã hội. Sự tồn tại yêu cầu chung về số lượng thì có thể chung cho mọi nền sản xuất, nhưng khác nhau về nguyên tắc chung trong nội dung, chất lượng, cách thức thực hiện những tỷ lệ đó. Sự khác nhau đó là do các quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản xuất, trước hết là quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất ấy quy định. Ngay trong các hình thái kinh tế - xã hội giống nhau tồn tại ở các nước khác nhau vẫn có sự khác nhau trong hình thái cơ cấu kinh tế, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Vì vậy, cơ cấu kinh tế ngành luôn luôn biến động, gắn với sự biến đổi, phát triển không ngừng của bản thân các yếu, bộ phận trong nền kinh tế và của những mối quan hệ bên trong.
Để làm rò tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cần thiết phải xem xét thêm một số xu hướng chuyển dịch mang tính quy luật dưới đây:
Thứ nhất; cơ cấu kinh tế chuyển từ cơ cấu kinh tế tự nhiên sang cơ cấu kinh tế của nền sản xuất hàng hóa. Một nền kinh tế có kết cấu giản đơn sang một nền kinh tế có mối liên kết phức tạp và ở trình độ cao hơn. Đây là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ở trình độ cao. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tận dụng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng này đã được nhiều quốc gia lựa chọn.
Thứ hai; tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong GDP, trong khi đó tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong
nông nghiệp giảm. Nguyên nhân: một mặt là, khi thu nhập tăng, chi tiêu cho hàng hóa thiết yếu như lương thực giảm trong tương quan với chi tiêu cho các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, nhu cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhạnh hơn nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác, do đất canh tác có hạn và đặc tính sinh học của cây trồng vật nuôi nên nông nghiệp phát triển chậm hơn công nghiệp
Thứ ba; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa sản phẩm. Do thu nhập ngày càng cao và nhu cầu con người cũng theo đó mà tăng lên cộng thêm sự xuất hiện của những nhu cầu mới ngày càng đa dạng và phong phú mà xã hội sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế đa dạng để đáp ứng những nhu cầu đó. Quy luật thị trường và lợi ích là động lực tác động tới sản xuất, làm cho sản xuất phát triển theo hướng đa dạng hóa sản phẩm.
Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình khách quan và tất yếu gắn với sự biến đổi không ngừng của các yếu tố, bộ phận và những quan hệ hợp thành nền kinh tế quốc dân.
1.2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng và điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Thứ nhất, các nguồn lực và lợi thế so sánh của mỗi địa phương là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả.
- Các yếu tố về điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, khí hậu, đất đai và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng rất lớn đối với việc lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành chuyên môn hóa và các ngành bổ trợ đối với từng vùng, từng địa phương. Thông thường, ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác các tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị
kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định… Như vậy, sự đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu ngành.
- Sự ổn định của thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rò ràng, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ… là một lợi thế quan trọng của nước ta trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, tư tưởng và hành vi của Nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể, cũng như sự phát triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thì Nhà nước đóng vai trò quyết định, thể hiện tập trung ở chỗ:
+ Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước cũng chính là định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư theo từng ngành và từng vùng lãnh thổ.
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách…nhà nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng của mình.
Thứ hai, nguồn nhân lực. Nguồn lực con người từ lâu được xem là nhân tố quyết định đối với quá trình sản xuất. Ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn nhân lực có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Nguồn nhân lực được xem xét trên các khía cạnh: quy mô nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực và xu hướng biến đổi của nguồn nhân lực.
Quy mô nguồn nhân lực là số lượng lực lượng lao động của xã hội biểu hiện ở số người trong độ tuổi, có khả năng và sẵn sàng lao động. Quy mô
nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành cơ cấu kinh tế. Để cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành một các hiệu quả, trong một trình độ khoa học – công nghệ nhất định cần có một lực lượng thích hợp. Nếu quy mô nguồn nhân lực quá nhỏ so với yêu cầu của nền kinh tế sẽ gây trở ngại cho sự phát triển, có thể phải nhập khẩu lao động, ở các nền kinh tế như vậy sẽ có một cơ cấu kinh tế với những ngành sử dụng ít lao động. Ngược lại, nếu quy mô nguồn nhân lực quá lớn, “dư thừa lao động” sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế có khả năng toàn dụng lao động, với những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động được ưu tiên phát triển.
Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh ở các tố chất về sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức. Chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Chất lượng nguồn nhân lực mà càng cao thì những ngành, những lĩnh vực đòi hỏi lao động đã qua đào tạo, có tay nghề cao càng có điều kiện phát triển. Trong các nhân tố cấu thành chất lượng nguồn nhân lực thì trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.