3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể bao gồm:
- Phân tích, làm rò các vấn đề lý luận về CCĐT, khái niệm về CCĐT, nguồn của CCĐT, dữ liệu điện tử, phương tiện điện tử; các quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam hiện hành về CCĐT;
- Phân tích thực trạng, từ đó làm rò những khó khăn, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về CCĐT tại địa bàn TP.HCM;
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về CCĐT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của BLTTHS 2015 về CCĐT; thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về CCĐT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự tại địa bàn TP.HCM; việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về CCĐT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận về CCĐT, các quy định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định về CCĐT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự tại TP.HCM giai đoạn từ năm 2015 – 2019.
Có thể bạn quan tâm!
- Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Các Đặc Điểm Đặc Thù Riêng Của Chứng Cứ Điện Tử :
- Quy Định Dữ Liệu Điện Tử Là Một Nguồn Của Chứng Cứ
- Giám Định Dữ Liệu Điện Tử Và Quy Trình Sao Lưu, Phục Hồi, Phân Tích Dữ Liệu Điện Tử
Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu.
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành…; vận dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê…dựa trên các văn bản pháp luật của Nhà nước để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về CCĐT của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, đồng thời đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về CCĐT thông qua thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật về CCĐT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự tại địa bàn TP.HCM, phân tích những khó khăn, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật và sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật về CCĐT; phân tích các quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về CCĐT, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng CCĐT trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những quan điểm, giải pháp đề xuất góp phần định hướng, hoàn thiện quy định pháp luật về CCĐT, tăng cường hiệu quả của việc nhận thức, áp dụng đúng chế định CCĐT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi phải sử dụng CCĐT để chứng minh tội phạm trong thời đại công nghệ 4.0 bùng nổ như hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chứng cứ điện tử trong Tố tụng Hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về chứng cứ điện tử.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về chứng cứ điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ ĐIỆN TỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chứng cứ điện tử
Trong thời đại công nghệ thông tin, hoạt động của con người thông qua các thiết bị điện tử ngày càng trở nên phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Các thiết bị điện tử cho phép ghi chép, lưu giữ nhiều sự vật, hiện tượng và hoạt động của con người một cách chi tiết, khách quan. Những hoạt động này sẽ hình thành nên các dấu vết điện tử ghi lại hành vi đã thực hiện, các dấu vết này tồn tại và được phát hiện dưới dạng DLĐT. Các DLĐT này có thể sẽ là nguồn CCĐT để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Vậy CCĐT là gì? Sự khác biệt về cơ chế hình thành (sự phản ánh), cơ chế tồn tại và cơ chế mang thông tin giữa CCĐT so với chứng cứ truyền thống, đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về CCĐT.
Theo quan điểm của các nhà khoa học tại Cục điều tra Liên bang Hoa Kỳ, trong tài liệu của SWGDE/IOCE thì: CCĐT là thông tin có giá trị chứng minh tội phạm được lưu trữ và truyền tải dưới dạng dữ liệu số.
Theo quan điểm của Hiệp hội Digital Forensic tại Australia thì: CCĐT là thông tin có giá trị điều tra liên quan đến các thiết bị số và các định dạng dữ liệu. Những thông tin này được biểu diễn dưới dạng số , bao gồm: System logs, audit logs, appalication logs, network logs, và các file hệ thống. Đồng thời, các file do người dùng tạo ra cũng có giá trị chứng minh hoạt động của tội phạm, siêu dữ liệu của mỗi file này thể hiện rò quá trình tạo, thay đổi nội dung file.
Tại Anh quốc, tổ chức ACPO (Assosiation of Chief Police Officers) cho rằng: CCĐT có thể là các bản ảnh vật lý và logic của các thiết bị, bản ảnh logic chứa một phần hoặc toàn bộ dữ liệu được chụp ngay khi tiến trình đang chạy.
Theo trang Từ điển bách khoa mở Wikipedia thì: Chứng cứ kỹ thuật số hoặc CCĐT (Digital evidence or electronic evidence) là bất kỳ thông tin xác thực nào
được lưu trữ hoặc truyền dưới dạng kỹ thuật số mà một bên tham gia vụ án có thể sử dụng tại phiên Tòa. Trước khi chấp nhận CCĐT, Tòa án sẽ xác định xem bằng chứng cứ đó có liên quan hay không, liệu nó có xác thực hay không, nếu đó là tin đồn và liệu một bản sao có được chấp nhận hay bản gốc là bắt buộc.
Hiện nay, BLTTHS 2015 không có khái niệm riêng cho CCĐT, mà chỉ có khái niệm về chứng cứ nói chung quy định tại Điều 86 BLTTHS 2015, nội dung như sau: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy, cho dù tồn tại dưới nguồn nào, thì chứng cứ đều có những dấu hiệu, thuộc tính căn bản, điều này không loại trừ đối với CCĐT. CCĐT là một loại chứng cứ cụ thể, nên cũng phải đảm đảo là “những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
Hiện nay, về mặt khoa học pháp lý, ở Việt Nam hiện đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng: CCĐT là những thông tin, dữ liệu có thật mà các chủ thể tiến hành tố tụng thu thập được từ nguồn chứng cứ điện tử, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS 2015 quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. [15]
Ý kiến này đã đưa ra khái niệm về CCĐT bao hàm đầy đủ ba thuộc tính: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ, tuy nhiên một vài thuật ngữ cần được điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Ý kiến thứ hai cho rằng: CCĐT là những chứng cứ được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số có liên quan đến vụ án hình sự” [16].
Ý kiến thứ ba theo tổ chức Cảnh sát hình sự Quốc tế – Interpol cho rằng: CCĐT là thông tin và dữ liệu có giá trị điều tra được lưu trữ hoặc truyền đi
bởi một máy tính, mạng máy tính hoặc thiết bị điện tử kỹ thuật số khác”. Việc xác lập, thu giữ cũng như phục hồi CCĐT cần phải được tiến hành một cách khẩn trương nhưng thận trọng, tỉ mỉ và chính xác cao.
Cả ý kiến thứ hai và ý kiến thứ ba đều không đưa ra được đặc điểm về tính hợp pháp của chứng cứ mà chỉ đề cập đến hai thuộc tính là tính khách quan, tính liên quan.
Tổng hợp những quan điểm trên và theo khái niệm về chứng cứ nói chung tại Điều 86 BLTTHS, có thể khái quát định nghĩa về CCĐT như sau: CCĐT là những thông tin, DLĐT có thật, được thu thập và xác định từ nguồn DLĐT, theo trình tự, thủ tục do BLTTHS 2015 quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay không, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án hình sự.
1.2. Nguồn của chứng cứ điện tử
1.2.1 Khái niệm nguồn của chứng cứ điện tử
Nguồn của CCĐT là nơi chứa đựng, cung cấp CCĐT và tồn tại khách quan, có liên quan đến vụ án, có thể được các CQTHTT rút ra làm rò các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và củng cố, sử dụng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự.
CCĐT được thu thập, xác định từ nguồn là các DLĐT. DLĐT là nguồn cung cấp các dữ liệu, thông tin, tình tiết mà từ đó rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Hay nói cách khác, nguồn của CCĐT chính là các DLĐT chứa đựng chứng cứ, tức là chứa đựng các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, có liên quan đến vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Như vậy, có thể khái quát định nghĩa về nguồn của CCĐT như sau: nguồn của CCĐT là các DLĐT có chứa đựng, cung cấp CCĐT để các CQTHTT củng cố, sử dụng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. [14, tr.13].
1.1.2. Dữ liệu điện tử
DLĐT là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. DLĐT được khởi tạo dưới hai hình thức: Do người sử dụng tạo ra và do máy tính tự động tạo ra.
- DLĐT do người sử dụng tạo ra: bao gồm các tài liệu, dữ liệu được tạo ra bởi hành vi của con người và được lưu lại trong bộ nhớ điện tử như văn bản, bảng biểu, hình ảnh số, thư điện tử, nội dung cuộc trò chuyện trên mạng, phản ánh của các khách hàng…Nếu các dữ liệu này được khởi tạo, lưu giữ, truyền đi và nhận lại một cách khách quan, nội dung chứa đựng các thông tin liên quan đến hành vi phạm tội cũng như các tình tiết có liên quan khác, có ý nghĩa trong việc xác minh sự thật khách quan trong quá trình giải quyết vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS 2015 quy định thì được xác định là CCĐT.
- DLĐT do máy tính tự động tạo ra: là kết quả được tạo ra sau khi chương trình máy tính xử lý các dữ liệu đầu vào theo một thuật toán đã được xác định, ví dụ như: nhật ký truyền tệp tin trong máy tính (FTP tranfer logs), nhật ký hệ điều hành/các tập tin reg-istry; các bản ghi định vị (GPS records), các bản ghi và nhật ký trang thư điện tử (Wed mail IP logs and records)…Sự tác động của con người đối với dữ liệu do máy tính tạo ra rất hạn chế. Những dữ liệu này nhằm chứng minh nguồn gốc truy cập trái phép, địa chỉ tấn công, các hành vi tấn công mạng. Tuy nhiên, để các dữ liệu sau khi thu được trên máy tính, USB, email của đối tượng, server của nhà cung cấp dịch vụ internet…về hành vi truy cập trái phép, tấn công DDOS, phát tán virus, gian dối, lừa đảo trên mạng trở thành chứng cứ thì cần phải nghiên cứu và xác định các dữ liệu đó có đảm bảo được đầy đủ các thuộc tính của CCĐT hay không. [47, tr.31]
1.2.3. Phương tiện điện tử.
DLĐT được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai thác, quản lý và cập nhật thông qua phương tiện điện tử.
Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự. Cụ thể hơn, phương tiện điện tử là “nơi” lưu trú, truyền đi hoặc nhận lại các dữ liệu điện tử. Đây cũng chính là loại phương tiện mà đối tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện tội phạm một cách nhanh chóng, dễ dàng. Một số loại phương tiện điện tử mà đối tượng phạm tội sử dụng khi thực hiện tội phạm như: các thiết bị di động (thường lưu giữ những chứng cứ quan trọng phục vụ cho công tác điều tra
như: tin nhắn, các cuộc gọi…hay thậm chí một số thiết bị di động còn tự động lưu cả lịch trình đi lại của người sử dụng (Ví dụ, khi thu giữ được một chiếu điện thoại Iphone thì có thể khai thác được các thông tin về vị trí người sử dụng đã từng đến qua dịch vụ định vị…
Có thể thấy, các phương tiện điện tử rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải có kiến thức và kỹ năng về điện tử khi thực hiện thu thập chứng cứ thông qua các phương tiện điện tử.
Phương tiện điện tử không đồng nhất với mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên các đường truyền.
Mạng máy tính: là một hệ thống gồm nhiều máy tính và các thiết bị được kết nối với nhau bởi đường truyền vật lý theo một kiến trúc (network architecture) nào đó nhằm thu thập, trao đổi dữ liệu và chia sẻ tài nguyên cho nhiều người sử dụng. Các máy tính được kết nối với nhau có thể trong cùng một phòng, một tòa nhà, một thành phố hoặc trên phạm vi toàn cầu.
Mạng viễn thông: là tập hợp thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông. Việc truyền thông tin giữa các đối tượng qua một khoảng cách, nghĩa là bao gồm bất kỳ hoạt động liên quan đến việc phát/nhận tin tức (âm thanh, hình ảnh, chữ viết…). Qua các phương tiện truyền thông (hữu tuyến như đường dây kim loại, cáp quang hoặc vô tuyến hoặc các hệ thống điện tử khác).
Truyền dẫn: là quá trình truyền tải thông tin từ điểm này đến điểm khác trong mạng viễn thông. Mạng truyền dẫn đóng vai trò rất quan trọng trong các hệ thống viễn thông. Nó là nền tảng, là cơ sở hạ tầng cho việc thực hiện truyền tải thông tin, dịch vụ.
Như vậy, có thể thấy phương tiện điện tử là một trong các loại thiết bị điện tử có chứa đựng các DLĐT cần thu giữ.[47, tr.33]
1.2.3. Mối liên hệ giữa chứng cứ điện tử, dữ liệu điện tử và phương tiện điện tử.
Có thể khái quát mối liên hệ giữa CCĐT, DLĐT và phương tiện điện tử như sau:
Thứ nhất, CCĐT chỉ có thể khai thác từ nguồn DLĐT. Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các chủ thể tố tụng không thể tìm kiếm CCĐT ngoài
DLĐT và luôn gắn liền với các thiết bị, phương tiện điện tử, phần mềm nhất định [15, tr.33].
Không phải mọi DLĐT là ký hiệu, chứ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự đều dùng để khai thác các CCĐT. Các DLĐT là nguồn của CCĐT khi các dữ liệu đó có chứa đựng các thông tin về người thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết khác có ý nghĩa trong giải quyết vụ án và được các cơ quan có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định.
Thứ hai, DLĐT được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác. Như vậy, phương tiện điện tử là nơi lưu trú, truyền đi hoặc nhận lại các dữ liệu điện tử. Do đó, phương tiện điện tử phải có sự tương thích với dữ liệu điện tử và bảo đảm được việc lưu giữ đó có hiệu quả; phải hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự.
Thứ ba, các DLĐT mặc dù được phát hiện, ghi nhận, thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định nhưng lại sử dụng các thiết bị, phương tiện điện tử, phần mềm không đảm bảo chất lượng, không bảo quản theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cũng không thể sử dụng các thông tin chứa đựng dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự là các CCĐT.
1.3. Các đặc điểm của chứng cứ điện tử.
Giống như chứng cứ nói chung và các chứng cứ truyền thống khác trong các vụ án hình sự nói riêng, thì CCĐT cũng phải đảm bảo ba thuộc tính chung của chứng cứ: đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Ngoài ra, CCĐT có nguồn gốc là DLĐT nên nó còn có các đặc điểm mang tính đặc thù riêng.
1.3.1. Các thuộc tính chung của chứng cứ điện tử:
1.3.1.1. Tính khách quan:
Tính khách quan của CCĐT thể hiện ở chỗ CCĐT phải là các thông tin, dữ liệu có thật, tồn tại một cách khách quan, không bị làm cho sai lệch, biến dạng, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, có nguồn gốc rò ràng và phù hợp với những tình tiết khác của vụ án.