Các Dấu Hiệu Thuộc Về Chủ Thể Của Tội Phạm


Về mức hình phạt chính quy định ở từng khung hình phạt có một số thay đổi như:

Nếu khoản 1 Điều 185g Bộ

luật hình sự

năm 1985 quy định hình

phạt tiền là hình phạt chính thì khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt tiền là hình phạt chính.

Về hình phạt bổ sung, cũng có những thay đổi như:

Nếu Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc bị tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc

công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” thì khoản 5 Điều 195 Bộ

luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 262 trang tài liệu này.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 4 - Đinh Văn Quế - 12

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội tàng trữ,

vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều

12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua

bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm

hình sự về

tội

tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự, vì khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16

tuổi trở

lên mới bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về

tội

tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản

xuất trái phép chất ma túy

theo khoản 1 Điều 195 Bộ

luật hình sự. Tuy

nhiên, nếu người từ đủ 16 tuổi trở lên sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội thì người dưới 16 tuổi vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà người sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự.


Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 195 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Khách thể

của tội

tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc

chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy là chế

độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Đối tượng tác động của tội phạm này là các tiền chất dùng vào việc

sản xuất chất ma tuý. Các chất ma tuý được liệt kê trong bảng 4 danh mục các tiền chất và các chất hoá học tham gia vào quá trình chế tạo các chất

ma tuý theo quy định của Công ước quốc tế 1961, 1971, 1988. Công ước

này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798-QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của Chủ tịch Nước cộng hoà xã hội Việt Nam. Theo bảng 4 của Công ước trên gồm 22 tiền chất và các chất hoá học tham gia vào quá trình chế tạo chất ma tuý như: Ephedrine, Ergometrine, Ergotamine, Lysergic acid, Pseudoephedrine, Safrole, Acetic anhydride, Acetone, Hydrochloric acid.v.v...

32

Đối tượng tác động của tội phạm này được coi là dấu hiệu cơ bản

để phân biệt với tội đoạt chất ma tuý.

tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan.

Có thể nói hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy cũng tương tự như hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tàng trữ trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là cất giữ bất hợp pháp tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan,

tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không

nhằm mục đích mua bán hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác mà chỉ nhằm mục đích sản xuất trái phép chất ma tuý.

Hành vi vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma tuý từ nơi


32 Xem Bảng 4 Danh mục các chất ma tuý phần phụ lục


này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người

khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán mà chỉ nhằm mục đích dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Hành vi mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép

chất ma tuý là bán hay mua để bán lại; vận chuyển tiền chất để bán cho

người khác; tàng trữ để bán lại nhằm dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; hoặc dùng tiền chất để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy tiền chất.

Bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý cho người khác là dùng tiền chất mà mình có dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được, nhặt được, người khác gửi hoặc chiếm đoạt được để bán cho người khác lấy tiền hoặc lấy tài sản.

Mua tiền chất nhằm bán lại trái phép cho người khác là dùng tiền hoặc tài sản để đổi lấy tiền chất và dùng tiền chất đó bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản. Chỉ khi nào xác định rõ mục đích của người phạm tội mua tiền chất đó là nhằm bán lại nhằm dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Việc xác định này, là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, căn cứ vào các tình tiết của vụ án.

Xin tiền chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình tiền chất rồi dùng tiền chất đó đem bán cho người khác lấy tiền hoặc tài sản khác. Việc xin tiền chất ma

tuý nhằm bán lại cho người khác trong thực tế xảy ra nhiều, vì người cho

tiền chất thường bị người xin nói dối là sẽ dùng vào việc khác chứ không dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý

nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi cất giữ trái phép tiền chất sau đó đem bán tiền chất đó cho người khác.

Vận chuyển tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý

để bán trái phép cho người khác cũng giống như hành vi vận chuyển trái

phép tiền chất, chỉ khác hành vi vận chuyển trái phép tiền chất ở chỗ người phạm tội không chỉ vận chuyển mà còn bán tiền chất mà mình vận chuyển cho người khác.

Nếu không chứng minh được người phạm tội có mục đích bán tiền chất mà họ vận chuyển cho người khác thì chỉ định tội là “vận chuyển trái

phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”, còn nếu


chứng minh được người phạm tội có mục đích bán tiền chất mà họ vận

chuyển trái phép thì định tội là “vận chuyển, mua bán trái phép dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.

tiền chất

Nếu biết người khác mua bán trái phép tiền chất mà vẫn tàng trữ, vận chuyển thì bị coi là hành vi giúp sức người mua bán và bị định tội là mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý với vai trò giúp sức.

Nếu hành vi vận chuyển tiền chất không trái phép và người vận chuyển tiền chất đó lại bán cho người khác một cách trái phép thì phải định tội là “chiếm đoạt, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.

Cũng coi là hành vi mua bán trái phép tiền chất, nếu dùng tiền chất để trao đổi, để thanh toán trái phép hoặc dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán lấy tiền chất để bán lại trái phép cho người khác.

Khi xác định hành vi mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý cần chú ý một số vấn đề sau:

Tiền chất mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ thuộc vào tiền chất đó là thật hay giả, tốt hay xấu.

Việc xác minh người phạm tội bán tiền chất cho người khác dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Trong trường hợp không chứng minh được hành vi bán trái phép tiền chất của họ, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý" hay tội "vận

chuyển trái phép

tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép

chất ma tuý"

hoặc “tàng trữ, vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”...

Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép

tiền chất và kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc

chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì tuỳ

từng trường hợp cụ thể mà định tội là “tàng trữ, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”; “vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”; “chiếm đoạt,

mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”

hay tội danh đầy đủ là “tàng trữ, vận chụyển, chiếm đoạt, mua bán trái

phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý”.

Hành vi chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý là hành vi cướp tiền chất, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tiền chất,


cưỡng đoạt tiền chất, cướp giật tiền chất, công nhiên chiếm đoạt tiền chất, trộm cắp tiền chất, lừa đảo chiếm đoạt tiền chất, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền chất, tham ô tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Hành vi chiếm đoạt tiền chất cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt trước, trong khi thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt.

Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt tiền chất hoặc không chứng minh được ý thức chiếm đoạt tiền chất mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn có tiền chất nhưng người phạm tội vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì không bị coi là hành vi chiếm đoạt tiền chất, mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội có tính chất chất chiếm đoạt (cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài sản có tiền chất và đem tiền chất đó nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không coi là hành vi chiếm đoạt tiền chất mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản.

Nếu mục đích ban đầu là chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản

xuất trái phép chất ma tuý, nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt thì lại không có tiền chất mà chỉ có tài sản thì người phạm tội vấn bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt trái phép ma tuý.

tiền chất dùng vào việc sản xuất

Nếu người phạm tội không có mục đích rõ rệt là sẽ chiếm đoạt cái gì (cái gì cũng được) nhưng khi chiếm đoạt lại là tiền chất và dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm

hình sự về tội chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma

tuý. Nhưng nếu không dùng tiền chất đó vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì người phạm tội chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản.

b. Hậu quả

Hậu quả của các tội phạm về ma tuý nói chung và hậu quả của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Những thiệt hại do hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất ( chính sách


quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý ). Riêng đối với hành vi tàng

trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào

việc sản xuất trái phép chất ma tuý còn gây ra hậu quả là có một hoặc một số chất ma tuý được sản xuất ra làm tăng số lượng chất ma tuý trong xã hội.

Trong một số trường hợp hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý còn gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng với những thiệt hại mà người phạm tội gây ra. Ví dụ: Nguyễn Hoàng M vận chuyển trái phép 700 gam Axit sun- phua-ric, trong quá trình vận chuyển, do không cẩn thận nên đã để Axit làm

bỏng nặng cháu Nguyễn Hoàng L con của M có tỷ lệ thương tật 50%.

Ngoài tội vận chuyển trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, M còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về vô ý gây thương tích nặng cho người khác theo Điều 108 Bộ luật hình sự.

Số lượng tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất chất ma tuý mà người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt cũng được coi là hậu quả của tội phạm, nhưng hậu quả này chỉ là

những thiệt hại gián tiếp cho xã hội và đã là yếu tố định tội hoặc định

khung hình phạt, số lượng càng lớn thì thiệt hại cho xã hội càng nhiều và người phạm tội bị phạt càng nặng.

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thực hiện hành

vi phạm tội của mình do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp

luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. Như vậy, đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp

nào do cố ý gián tiếp. Tuy nhiên đối với hành vi chiếm đoạt tiền chất dùng

vào việc sản xuất trái phép

chất ma tuý thì người phạm tội có thể

thực

hiện hành vi của mình do cố ý gián tiếp trong trường hợp người phạm tội không cần xác định đối tượng, tiền chất cũng chiếm đoạt mà tài sản khác cũng chiếm đoạt ( bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra, tiền chất cũng lấy mà tài sản khác cũng lấy).

Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, nếu không chứng minh được người phạm tội biết dùng tiền chất vào việc sản xuất


trái phép chất ma tuý thì không truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội “tàng

trữ, vận chuyển, mua bán trái phép tiền chất dùng vào việc sản xuất trái

phép chất ma tuý” được mà tuỳ trường hợp cụ thể họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm sở hữu nếu hành vi của họ cấu thành các tội phạm đó.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt

Là trường hợp tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt

tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép

chất ma tuý

không thuộc

các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ một đến sáu năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.

So với khoản 1 Điều 185g Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì quy định tại khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 195 không quy định hình phạt tiền là hình phạt

chính nữa, nên không được áp dụng đối với hành vi phạm tội chứa chấp

việc sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 195 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 185g có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính, nay hình phạt này không còn quy định nữa và theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự, thì điều luật xóa bỏ một hình phạt thì không được áp dụng đối với người phạm tội. Quan điểm này cũng có nhân tố hợp lý, nhưng nếu so sánh điều luật Bộ luật hình sự năm 1999 với điều luật Bộ luật hình sự năm 1985 thì phải coi Điều 195 là điều luật nặng hơn vì mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 185 g nhẹ hơn so với mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 195. Còn việc nhà làm luật xoá bỏ hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 Điều 195 chỉ là trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự. Nếu áp dụng khoản 1 Điều 185g đối với người phạm tội thì không được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, vì hình phạt này không còn quy định nữa.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối

với người phạm tội theo khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết


tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt ( dưới hai năm tù), nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Tuy nhiên,

việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng, vì tội

phạm này là tội phạm nghiêm trọng. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, khi mà tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối cho xã hội thì việc cho người phạm tội hưởng án treo phải hết sức chặt chẽ.

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 195 Bộ luật hình sự

a. Có tổ chức

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác.

Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất

dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Ở nước ta, hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý ít xảy ra, nên cơ

quan điều tra cũng ít phát hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý và thực tiễn xét xử chưa phát hiện trường hợp phạm tội nào tàng trữ,

vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc

sản xuất trái phép chất ma tuý, mà chỉ mới phát hiện được một vài trường hợp sản xuất trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, về lý thuyết thì không thể loại trừ hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, vì xã hội càng phát triển thì các tội phạm về ma tuý càng được thực hiện với quy mô lớn và tinh vi hơn. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này không phải là thừa.

Khi xác hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức, cần phân biệt với hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức, mà người

có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền

chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý chỉ là người đồng phạm của tội sản xuất trái phép chất ma tuý có tổ chức. Vì tiền chất là một chất

Xem tất cả 262 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí