Khi xây dựng BLHS 1999, đất nước ta mới bắt đầu chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên đã hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm cho xã hội xuất hiện trong cơ chế thị trường. Đến nay, cơ chế thị trường không những đã được khẳng định và phát huy hiệu quả mà còn được phát triển một cách sâu, rộng trên tất cả mọi mặt của hoạt động kinh tế. Chính sự phát triển đó đã làm xuất hiện những lĩnh vực mới của đời sống kinh tế như hoạt động cạnh tranh, hoạt động của thị trường chứng khoán… và cũng làm xuất hiện những hành vi nguy hiểm cho trật tự quản lý ở những lĩnh vực mới mà BLHS 1999 chưa qui định. Nghị quyết 49/NQ của Bộ Chính trị năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đã khẳng định “Quy định là tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế”. Trên cơ sở định hướng này, cần hình sự hoá, tội phạm hóa một số hành vi sau:
- Việc xuất hiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam những năm qua đã hình thành một kênh huy động vốn cho phát triển kinh tế với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hoạt động chứng khoán rất đa dạng, phức tạp, mọi biến động của nó đều ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội, ổn định chính trị... Vì vậy, quản lý chặt chẽ, minh bạch, nhạy bén với hoạt động chứng khoán là đòi hỏi khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường. Nếu làm tốt sẽ huy động được vốn cho phát triển kinh tế, làm an lòng nhà đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội đưa đất nước sớm trở thành nước công nghiệp phát triển. Chế tài Hình sự là công cụ hữu hiệu để bảo vệ những quan hệ tiến bộ, lành mạnh và trừng trị những hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước trong hoạt động chứng khoán. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử ra đời mà BLHS 1999 chưa có những qui định về hành vi nguy hiểm cho xã hội trong hoạt động chứng khoán mà khi
hoàn thiện BLHS cần khắc phục. Có thể kể ra một số hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức coi là tội phạm trong lĩnh vực này như: Hành vi gian lận trong hoạt động chứng khoán của các công ty chứng khoán nhằm mục đích vụ lợi thông qua các giao dịch của các nhà đầu tư chứng khoán; Hành vi phạm các qui định về hoạt động chứng khoán của nhà đầu tư; Hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của những người trong cơ quan quản lý hoạt động chứng khoán làm trái các qui định quản lý hoạt động chứng khoán của Nhà nước vì mục đích tư lợi, gây hậu quả nghiêm trọng… Những hành vi này trên thực tế đã xảy ra và là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho thị trường chứng khoán nước ta lâm vào tình trạng “nóng” “lạnh” bất thường gây thiệt hại cho nền kinh tế. Vì vậy, việc hình sự hoá, tội phạm những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực hoạt động chứng khoán là đòi hỏi cấp thiết trong việc hoàn thiện BLHS. Đòi hỏi này xuất phát từ nhu cầu nội tại phát triển nền kinh tế thị trường đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực chứng khoán trong điều kiện hiện nay do “ở mỗi giai đoạn khác nhau, việc sử dụng pháp luật hình sự để đấu tranh chống lại các hành vi nguy hại cho xã hội đều xuất phát từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ phát triển, tiến bộ của xã hội ta” [20]
- Cũng do sự phát triển sâu rộng của nền kinh tế thị trường, nên cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế. Nhà nước ta đã ban hành Luật Cạnh tranh với mục đích đảm bảo hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần kinh tế ở trong nước và nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam được bình đẳng, lành mạnh, minh bạch, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với sự độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh. Những hành vi này ở mức độ thấp có thể xử lý bằng chế tài hành chính do cơ quan tài phán hành chính thực hiện như Luật Cạnh tranh đã qui định, nhưng nếu tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao thì cần phải được xử lý bằng chế tài hình sự mới
đảm bảo được sự phát triển lành mạnh của các quan hệ cạnh tranh. Vì vậy, cũng cần hình sự hóa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành tội phạm khi hoàn thiện BLHS.
- Các hành vi trong lĩnh vực quản lý đất đai, trong lĩnh vực bảo hiểm, trong hoạt động đấu thầu.
Thứ ba, gộp một số tội phạm qui định tại các Điều 156, 157, 158 BLHS thành một bởi các hành vi trên có cùng bản chất.
Tại các Điều 156, 157, 158 BLHS qui định các hành vi tương ứng: Sản xuất, buôn bán hàng giả; Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Các hành vi này vốn là hành vi buôn bán hàng giả, giữa chúng chỉ khác nhau ở đối tượng tương ứng: Hàng giả là hàng hóa thông thường; Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi. Về thực chất, hành vi và tính chất của các tội phạm này không khác nhau là đều sản xuất hàng giả và nếu có sự khác nhau chỉ là mức độ phạm tội do tác động đến những đối tượng phạm tội có tầm quan trọng khác nhau. Vì vậy, về kỹ thuật lập pháp không cần thiết phải qui định ở những điều luật khác nhau .
Thực tế, có trường hợp người phạm tội cùng một lúc thực hiện hành vi sản xuất hoặc hành vi buôn bán hàng hóa thuộc các đối tượng tác động của ba tội phạm kể trên và do đó họ đã phạm nhiều tội, Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt của các tội phạm đó nên hình phạt của họ có thể rất cao theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội qui định tại Điều 50 BLHS. Theo đó, nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt
chung; hình phạt chung không được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi năm đối với hình phạt tù có thời hạn.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Xử Lý Các Hành Vi Xâm Phạm Trật Tự Quản Lý Kinh Tế Trên Địa Bàn Thành Phố Đà Nẵng Từ Năm 2009 Đến 2014
- Đặc Điểm Về Hành Vi Xâm Phạm Trật Tự Quản Lý Kinh Tế Trên Địa Bàn Thành Phố Đà Nẵng
- Nhu Cầu Và Quan Điểm Hoàn Thiện Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Chế Tài Hình Sự Để Bảo Vệ Trật Tự Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế
- Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng - 10
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
Như vậy, trong trường hợp này người phạm tội có thể bị tổng hợp hình phạt của nhiều tội phạm theo phương pháp cộng hình phạt của các tội phạm đã phạm và có thể đến 30 năm tù thay vì tối đa đến 20 năm tù trong trường hợp phạm một tội. Thực tế này đã dẫn đến hai hệ quả: 1) Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội quá cao so với tính chất, mức độ phạm tội của họ; 2) không có sự công bằng nếu so sánh với các tội phạm khác trong Bộ luật Hình sự, như các tội phạm: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230 BLHS); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (Điều 231 BLHS); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 232 BLHS)... Trong khi hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở nhiều tội phạm do tác động đến những đối tượng phạm tội khác nhau thì cũng là những hành vi tác động đến nhiều đối tượng phạm tội ở những trường hợp khác lại chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm như các điều luật kể trên. Rõ ràng ở đây đã có sự bất bình đẳng trong việc qui định trách nhiệm hình sự cho người phạm tội ở những tội phạm khác nhau. Sự bất bình đẳng này cần được khắc phục khi hoàn thiện Bộ luật Hình sự theo tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49.
3.3. Một số giải pháp khác tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm theo yêu cầu của Bộ Chính trị được nêu trong Chỉ thị số 48/CT-TW,
ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; nghiên cứu xây dựng, sớm ban hành các văn bản pháp luật đáp ứng với đòi hỏi của tình hình mới, xây dựng các pháp luật chuyên ngành như: Thuế, hải quan, tài chính, ngân hàng, chứng khoán…phù hợp với các quy định của Bộ luật Hình sự. Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm và một số đạo luật có liên quan...
Ba là, kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức, hiệu quả bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế: Vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường chủ yếu phải nói đến chức năng quản lý Nhà nước nền kinh tế của Chính phủ. Không thể có sự phát triển kinh tế xã hội và bền vững mà không có một Nhà nước hoạt động có hiệu quả. Nhà nước phải trở thành trung tâm của sự phát triển kinh tế, xã hội, Nhà nước xây dựng và ban hành thể chế, tạo ra hành lang pháp lý và các chế độ, chính sách thông thoáng cho kinh tế - xã hội phát triển. Nhà nước phải trở thành người cộng sự, người tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển, Nhà nước phải hoạt động để bổ sung cho các thị trường chứ không phải thay thế các thị trường.
"Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại, đúng với vai trò là cơ quan hành chính cao nhất". Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển. Tập trung làm
tốt việc hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách xây dựng giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra….
Bốn là, từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách. Rà soát, đánh giá thực trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực lượng này. Trong đó, cần tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố trí hợp lý mô hình các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế phối hợp... theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ- TW, ngày 02-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số: 30c/NQ-CP, ngày 08-11-2011, của Chính phủ về Chương trình cải cách nền hành chính quốc gia giai đoạn 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư ngân sách, mua sắm, cung ứng vật tư, phương tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Sáu là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm. Trước hết, ưu tiên hợp tác với các
cơ quan an ninh, cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh sát, tư pháp hình sự quốc tế để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ yêu cầu hiện đại hóa, tăng cường năng lực của các lực lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Trước sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra cho đất nước những thời cơ, thuận lợi để phát triển. Nền kinh tế đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ với các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, thách thức, khó khăn và những hệ quả tiêu cực kéo theo là không nhỏ, trong đó có một số đối tượng lợi dụng chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế của Nhà nước, đã có những hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây mất ổn định nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Pháp luật hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng, là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước ta để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật hình sự còn chưa được hoàn thiện, chưa đồng bộ và đáp ứng kịp thời với đòi hỏi, diễn biến thực tiễn tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; chưa thực sự nghiêm minh, đảm bảo tính trừng trị, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Về mặt lý luận, trong những năm qua các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã liên tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện với hai xu hướng hình sự hóa, phi hình sự hóa. Tuy nhiên trước những biến đổi nhanh chóng khi đất nước hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới tình hình tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng trong thời gian tới còn tiếp tục tăng, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, nghiên cứu quy định trong BLHS hiện hành về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ho thấy còn những khoảng trống, bất cập về lý luận. Tuy nhiên việc hoàn thiện