Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 11

không có tài sản giá trị hoặc có tài sản nhưng sau khi bán đi cũng không thể có khả năng thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của mình.

- Về thời gian kết thúc tạm hoãn cấp dưỡng:

Thứ nhất: Đó là trước thời điểm người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và có khả năng lao động. Bởi lẽ nếu người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và có khả năng lao động thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng chấm dứt, người phải cấp dưỡng lúc đó cũng không phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nữa, trong trường hợp này thời gian tạm hoãn cấp dưỡng đương nhiên chấm dứt. Như vậy, quyền lợi của người được cấp dưỡng trong thời gian tạm hoãn trước đó sẽ không được đảm bảo và cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng

Thứ hai: Trong trường hợp được cấp dưỡng là người thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật, rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu thì việc tạm ngừng cấp dưỡng chỉ được tạm ngừng trong một thời gian có lợi nhất không được tạm ngừng cấp dưỡng trong một thời gian dài.

Trong các bản án hay quyết định của Toà phải quy định cụ thể ngày tạm ngừng cấp dưỡng là ngày nào. Ấn định một thời gian nhất định để bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng cũng như quyền lợi của người trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng.

3.3.4. Trường hợp cấp dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế của con riêng của vợ hoặc chồng

Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ có quy định về quyền và nghĩa vụ trong đó có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa bố dượng hoặc mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng nhưng lại không có quy định cụ thể về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa họ khi họ không sống chung. Qua thực tiễn cho thấy cũng có không ít các yêu cầu cấp dưỡng giữa những chủ thể này, vì vậy để hoàn thiện pháp luật nhằm tạo cơ sở để các cơ quan xét xử giải quyết vấn đề cấp dưỡng

xảy ra giữa những chủ thể này thì cần thiết có quy định cụ thể và giải thích rõ hơn cũng như bổ sung thêm về chế định con riêng nói chung và cấp dưỡng đối với con riêng trong trường hợp ly hôn.

Tuy nhiên, việc quy định này ngoài đáp ứng các điều kiện như: Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, thì phải xét tới việc giữa bố dượng, mẹ kế phải có thời gian sống chung với con riêng khá dài. Đồng thời, con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng đã có công lao chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế như cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi của mình theo các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong một thời gian dài mà họ không được ai cấp dưỡng khi đã hội đủ điều kiện để được cấp dưỡng. Chứ hoàn toàn không phải mọi trường hợp con riêng của bố dượng mẹ kế đều được bố dượng, mẹ kế khi ly hôn cấp dưỡng cho con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng, mà thời gian sống chung quá ít hoặc công sức chăm sóc lẫn nhau chưa nhiều, nay vì bố dượng, mẹ kế chấm dứt hôn nhân, nên không còn sống chung với bố dượng hoặc mẹ kế nữa. Bởi có quy định đó đảm bảo cho việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng có tâm lý tự nguyện và thực sự có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ như đối với con đẻ.

3.3.5. Cách tính số tiền bồi thường cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn mà một người bị tai nạn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ nhân thân, gắn liền với nhân thân của chủ thể. Đồng thời quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ tài sản đặc biệt.

Giả sử vợ, chồng sau khi ly hôn, nếu bên không trực tiếp nuôi con không may bị tai nạn có thể bị chết hoặc mất khả năng lao động, điều đó đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của người đó đối với con cũng chấm dứt. Trong trường hợp này thì quyền lợi của người con tức là quyền lợi của người được cấp dưỡng bị ảnh hưởng trực tiếp cả về vật chất lẫn tinh thần. Đúng ra

Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 11

người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng đến khi người con trưởng thành và có khả năng lao động, thậm chí phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con vô thời hạn nếu rơi vào trường hợp con đã thành niên không có năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật nhưng vì sự cố không may, lý do khách quan mà họ không thể tiếp tục thực hiện trách nhiệm của họ, do vậy, trong trường hợp này người đã gây ra thiệt hại cho người phải cấp dưỡng phải chịu trách nhiệm thực hiện tiếp trách nhiệm mà người phải cấp dưỡng đang thực hiện dang dở. Mặc dù quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ nhân thân và không thể chuyển giao cho người khác nhưng trong trường hợp này thì khác. Người đã gây ra thiệt hại cho người có trách nhiệm cấp dưỡng, khiến người phải cấp dưỡng không thể thực hiện trách nhiệm của mình phải có nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng, nhằm đảm bảo cuộc sống cho người được cấp dưỡng.

Để xác định, tính toán chi phí cấp dưỡng, đảm bảo nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi phục lại tình trạng như trước khi xảy ra thiệt hại điều đó không hề đơn giản. Căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế chung ở nước ta và thực tế giải quyết việc cấp dưỡng, trên cơ sở quy định tại khoản 2- Điều 613- Bộ Luật dân sự 2005, Điều 116 – Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, theo tôi cách tính khoản tiền bồi thường khoản tiền cấp dưỡng có thể thực hiện bằng hai cách sau:

Thứ nhất: Các bên có thể tự tính toán, thoả thuận mức bồi thường và thực hiện việc bồi thường theo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận trong bồi thường thiệt hại.

Thứ hai: Trong trường hợp các bên không tự thoả thuận được thì việc tính toán, xác định mức bồi thường phải đồng thời căn cứ vào thu nhập của người bị hại, mức cấp dưỡng thực tế trước khi xảy ra thiệt hại, mức sống trung bình của đại bộ phận dân cư được cấp dưỡng đang sống. Nếu vẫn có tranh chấp thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Căn cứ việc xác định tính toán các thiệt hại khác, việc bồi thường khoản chi phí cấp dưỡng cũng cần phải căn cứ vào lỗi của các bên, trong đó có lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp nhiều người cùng có lỗi gây thiệt hại thì họ có trách nhiệm liên đới cùng bồi thường. Khoản tiền phải bồi thường của mỗi người trong trường hợp này được xác định căn cứ vào mức độ lỗi của họ, trong đó có cả lỗi của người bị thiệt hại nếu người này có lỗi. Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì những người gây thiệt hại phải bồi thường theo phần bằng nhau.

Ngoài ra, việc tính toán khoản tiền cấp dưỡng gây thiệt hại phải bồi thường cho người được cấp dưỡng cũng cần phải xem xét đến nghĩa vụ cấp dưỡng của những người khác đối với người được cấp dưỡng. Ví dụ như nghĩa vụ cấp dưỡng của bố hoặc mẹ đối với các con khi một trong hai người bị tai nạn để tránh buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ khoản tiền cấp dưỡng. Giải quyết việc bồi thường khoản tiền cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn mà một trong hai người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không may bi tai nạn đang là một vấn đề phức tạp. Nhất là hiện nay, khi việc bồi thường thiệt hại đang chịu sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nên đang có xu hướng bị thương mại hoá. Vì vậy Luật Hôn nhân và gia đình cùng các văn bản pháp luật khác cần có các quy định cụ thể về vấn đề này để bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng.

3.3.6. Vấn đề về tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật

Nhằm ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn như: Trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ… đảm bảo mục đích của việc cấp dưỡng nuôi con một trong những biện pháp quan trọng và cần thiết là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc cấp dưỡng nuôi con. Công tác đó cần được thực hiện một cách thường xuyên theo định kì hoặc tiến hành đột xuất khi có dư luận, hay có đơn tố cáo của quần chúng nhân dân.

Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn các vấn đề liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con được chính xác, đúng đắn và có hiệu quả, vấn đề đặt ra là nâng cao năng lực cán bộ có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con, đề cao trách nhiệm “chí công vô tư” không ngại khó khăn khi xác minh sự việc. Trong quá trình cưỡng chế thi hành án cần có sự phối hợp của các cơ quan như Viện kiểm sát, cơ quan Công an, cơ quan thi hành án đưa ra những biện pháp thoả đáng buộc người phải thi hành án thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ cấp dưỡng.

Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn được tiến hành và đẩy mạnh để làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ mục đích và ý nghĩa về các vấn đề có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con. Do đó, tạo được sự đồng tình, ủng hộ và mọi người có thái độ đúng đắn, nhận thức đầy đủ các vấn đề về cấp dưỡng nuôi con. Trên cơ sở đó giúp mọi người ý thức quyền lợi của mình và bảo vệ quyền lợi chính đáng của của các bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt là quyền lợi của người con.


Kết luận chương 3


Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án tranh chấp về cấp dưỡng sau ly hôn đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về tố tụng và nội dung, phải thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp trên sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, từ đó bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ cấp dưỡng, đặc biệt bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em.

KẾT LUẬN


Trên đây là những nội dung cơ bản của luận văn thạc sĩ luật học: “Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay”.

Chế định cấp dưỡng là một chế định có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình. Không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia mà đây đã và đang là vấn đề của toàn cầu. Chế định cấp dưỡng đã góp phần vào việc đảm bảo cho cuộc sống của người được cấp dưỡng, đặc biệt đối với những người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Đảm bảo cho các em được chăm sóc, nuôi dưỡng được phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần dù không được sống cùng cả cha và mẹ trong mét gia đình. Ngoài ra, chế định cấp dưỡng còn là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người phải cấp dưỡng trong quan hệ cấp dưỡng, qua việc xác lập quan hệ cấp dưỡng giữa người được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng.

Vấn đề cấp dưỡng được quy định khá cụ thể và đầy đủ trong Luật HN&GĐ năm 2000, 2014 và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng cho con khi vợ chồng ly hôn, cấp dưỡng giữa vợ và chồng.

Tuy nhiên, cùng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế đã tác động vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ cấp dưỡng nói riêng. Một số quy định của pháp luật đã không còn phù hợp với thực tế, một số vấn đề còn chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, đòi hỏi pháp luật về cấp dưỡng cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tế. Cùng với đó, chúng ta cần tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về cấp dưỡng trên thực tế và nâng cao trách nhiệm, năng lực chuyên môn của cán bộ có thẩm quyền, phải chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về cấp dưỡng, đặc biệt là cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn để mọi tầng lớp nhân dân có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này và ý thức được quyền lợi, trách nhiệm của mình trong việc cấp dưỡng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972.

2. C.Mác – Ph Ăngghen toàn tập (2000), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội.

3. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.

4. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950, Hà Nội.

5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 159 ngày 17/11/1950 về ly hôn, Hà Nội.

6. Dân luật Bắc kỳ năm 1931.

7. Dân luật Trung kỳ năm 1936.

8. Hoàng Việt Luật lệ (1811), Bộ luật Gia Long.

9. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/HĐ - HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.

10. Lê Thạch Hương (2008), Quan hệ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Cần thơ.

11. Nguyễn Ngọc Điện (2005), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam tập 1- Gia đình, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Thanh Hồng (2002), “Vấn đề bồi thường khoản tiền cấp dưỡng trong các vụ tai nạn giao thông theo Bộ Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (4).

13. Ngô Thị Hường (2003), “Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn”, Tạp chí Luật học, (3).

14. Ngô Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (4), tr.13-18.

15. Phan Thị Vân Hương (2004), “Cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (6).

16. Phạm Xuân Linh (2006), “Bàn về chế định nghĩa vụ của cha mẹ đối với con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (9).

17. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội (2009), Bộ Luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Hiến pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Quốc triều hình luật (1483), Bộ luật Hồng Đức.

26. Tập Giản yếu năm 1883, Nam kỳ.

27. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.

28. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết ngành tòa án, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/10/2023