Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 1

ĐINH VĂN QUẾ

THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO


BÌNH LUẬN KHOA HỌC BLUT HÌNH S


PHẦN CÁC TỘI PHẠM


(TẬP VII)


CÁC TỘI XÂM PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.


BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 1

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LỜI GIỚI THIỆU


Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997.

Bộ luật hình sự

năm 1999 không chỉ

thể

hiện một cách toàn diện

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm

quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước,

góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất

quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số

04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành".

Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

- Phần các tội phạm (Tập VI)- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn “Bình lun

khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm (Tập VII) - Các tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông” 1 của tác giả Đinh Văn Quế -

Thạc sỹ

Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự

Toà án nhân dân tối cao,

người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia

xét xử thông.

nhiều vụ

án về

các tội xâm phạm các quy định về

an toàn giao

Dựa vào các quy định của chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm quy định về an toàn giao thông, tác giả đã

giải thích một cách khoa học về các các tội phạm này, đồng thời tác giả



1 Tên gọi của các tội phạm này do tác giả đặt

cũng nêu ra một số nước ta.

vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

NHA XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MỞ ĐẦU


Trong những năm vừa qua, mặc dù Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm giảm bớt các vụ tai nạn giao thông, nhưng tình trạng vi phạm các

quy định về an toàn giao thông vẫn chưa thuyên giảm, nhiều vụ tai nạn

giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm chết nhiều người, làm hư hỏng tài sản có giá trị hàng trăm triệu đồng. Vấn đề an toàn giao thông vẫn là vấn đề nóng bỏng trong tình hình hiện nay. Cuộc vận động lập lại

trật tự an toàn giao thông đang là một trong những nhiệm trọng tâm của

toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành các cấp.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng chủ


yếu là do ý

thức của những người tham gia giao thông, một phần do không hiểu biết về các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông, một phần do người tham gia giao thông biết nhưng cố tình vi phạm. Việc xử lý các hành vi vi phạm chưa nghiêm, nhiều vụ tai nạn giao thông lẽ ra người có hành vi vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ bị xử phạt hành chính hoặc tuy có bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được áp dụng hình phạt quá nhẹ, thậm chí cho hưởng án treo không đúng, không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Ngược lại cũng không ít trường hợp tai nạn xảy ra lỗi hoàn toàn của nạn nhân, nhưng do không đánh giá đúng các tình tiết của vụ án nên đã truy cứu trách nhiệm hình sự người gây tai nạn mà họ không có lỗi.

Các quy định của pháp luật về an toàn giao thông ở nước ta tương

đối nhiều, nhưng chưa đồng bộ, chưa thành một hệ thống hoàn chỉnh, có lĩnh vực đã có luật như Luật giao thông đường bộ, Luật hàng không dân dụng, nhưng có lĩnh vực mới chỉ có Nghị định như Nghị định số 39/CP ngày 05 tháng 7 năm 1996 của Chính phủ về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt, Nghị định số 40/CP ngày 05 tháng 7 năm 1996 của Chính phủ về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thuỷ. Do yêu cầu của tình hình nên các văn bản pháp luật về an toàn giao thông, nhất là an toàn giao

thông đường bộ, luôn được bổ

sung, sửa chữa nhưng vẫn chưa đáp

ứng

yêu cầu của việc xử lý các hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông. Ngày 27-5-2004 tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI, Quốc hội lại thông qua Luật giao thông đường thuỷ nội địa thay thế cho Nghị định số 40/CP ngày 05 tháng 7 năm 1996 của Chính phủ về bảo đảm trật tự, an

toàn giao thông đường thuỷ là một bước phát triển mới về công tác lập

pháp, nhằm đáp ứng yêu cầu hạn chế tới mức tối thiểu những thiệt hại về người và tài sản do các hoạt động giao thông đường thuỷ gây ra. Tuy nhiên, Luật này có hiệu lực từ ngày 1-1-2005, nên các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường thuỷ nội địa xảy ra trước ngày 1-1-2005 theo hướng không có lợi cho người phạm tội so với Luật giao thông đường thuỷ nội địa thì phải căn cứ vào Nghị định 40/CP để xác định.

Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có 4 Điều quy định các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông vận tải, đó là các Điều 186, 187, 188 và 189 tương ứng với bốn tội danh. Nay Bộ luật hình sự 1999 có 17 Điều tương ứng với 17 tội danh khác nhau quy định các hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông về từng lĩnh vực riêng như: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không. Các tình tiết là yếu tố định tội và yếu tố định khung hình phạt có nhiều điểm mới, nhưng lại chưa được giải thích hướng dẫn cụ thể, nên thực tiễn áp dụng gặp không ít trường hợp có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi xử lý hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông.

Với ý nghĩa trên, qua nghiên cứu và qua thực tiễn xét xử , chúng tôi sẽ phân tích các dấu hiệu của các tội xâm phạm an toàn giao thông quy định tại chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999, giúp bạn đọc, nhất là các cán bộ làm công tác pháp lý tham khảo.


PHẦN THỨ NHẤT

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI

XÂM PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999


Các tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông được quy định

tại chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 gồm các tội vi phạm an toàn

giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không.

So với chương VIII Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông quy định tại Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm sửa đổi, bổ sung sau:

- Chương VIII Bộ

luật hình sự

năm 1985 chỉ có 4 Điều (186, 187,

188, 189) quy định về các tội xâm phạm an toàn giao thông, nay chương

XIX Bộ luật hình sự năm 1999 có 17 Điều (202, 203, 204, 205, 208, 209,

210, 211, 212, 213, 214, 215, 216, 217, 218, 219, 220) quy định các tội xâm

phạm an toàn giao thông, với 17 tội danh tương ứng.

- Hầu hết các tội phạm quy định tại chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 đều là tội phậm được tách từ các tội đã được quy định tại 4 điều luật của chương VIII Bộ luật hình sự năm 1985, riêng tội vi phạm quy định

về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông là tội phạm mới. Đối với tội tổ chức đua xe trái phép và tội đua xe trái phép quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật hình sự, có ý kiến cho rằng đó là tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông. Tuy nhiên, căn cứ vào hành vi phạm tội thì hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe trái phép trước đây bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Do đó hai tội phạm này không phải là tội xâm phạm các quy định về an toàn giao thông, mà là các tội xâm phạm trật tự công cộng.

- Về cấu tạo, các tội phạm quy định tại chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều khung hình phạt hơn so với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải ở chương VIII Bộ luật hình sự năm 1985.

- Các yếu tố định tội ở một số tội danh cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng phi hình sự hoá một số hành vi hoặc quy định các tình tiết làm

ranh giới để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi chưa tới mức là tội

phạm. Ví dụ: Người có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông vân tải trước đây quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định gây thiệt hại đến sức khoẻ của người khác, thì nay Điều 202 Bộ luật

hình sự năm 1999 quy định: “... gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ

của người khác” mới phải chị trách nhiệm hình sự.

- Hầu hết các tội phạm đều được bổ sung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.

- Hình phạt bổ sung đối với từng tội phạm, nếu thấy là cần thiết

được quy định ngay trong cùng một điều luật.


PHẦN THỨ HAI CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ


1. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ


Điều 202. Tội vi phạm quy định về giao thông đường bộ

điều khiển phương tiện

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi

phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không

giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:


khác;

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh

c) Gây tai nạn rồi bỏ không cứu giúp người bị nạn;

chạy để

trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng

thực tế

dẫn đến hậu quả

đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn

chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Định Nghĩa:

Vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi

điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính

mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác.

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là tội phạm được tách từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông

vận tải quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985.

So với Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung như:

Quy định cụ thể hành vi phạm tội là hành vi vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chứ không phải vi phạm về an toàn giao thông vận tải chung chung như Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985;

Sửa đổi tình tiết gây thiệt hại đến sức khoẻ

nghiêm trọng đến sức khoẻ”;

thành

“gây thiệt hại

Bổ sung tình tiết “không có giấy phép lái xe”, ngoài tình tiết không có bằng lái xe;

Bổ sung tình tiết “Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm

nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” và tình tiết “Gây hậu

quả rất nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt;

Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội; tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên tới ba năm.

Hình phạt bổ sung được quy định trong cùng điều luật.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Tuy không phải là chủ

thể

đặc biệt, nhưng chỉ

những người điều

khiển các phương tiện giao thông đường bộ mới là chủ thể của tội phạm này.

Khi xác định chủ thể của tội phạm này cần chú ý: Người điều khiển phương tiện giao thông cũng là người tham gia giao thông, nhưng người tham gia giao thông thì có thể không phải là người điều khiển phương tiện giao thông. Đây cũng là dấu hiệu phân biệt tội phạm này với các tội vi phạm an toàn giao thông khác.

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Người tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm được thực hiện do vô ý và không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng.

2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Đối tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường bộ bao gồm: xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Hiện nay, các quy định về trật tự an toàn giao thông được quy định tại Luật giao th ông đ ườ ng b ộ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 20012. Đây cũng là căn cứ để xác định hành vi điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ đã vi phạm hay chưa vi phạm.

Trước khi có Luật giao thông đường bộ khi xử lý hành vi vi phạm các quyết định hình phạt về an toàn giao thông đường bộ được căn cứ vào Điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị (Ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 29/5/1995 của Chính phủ).

3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan

Người phạm tội này đã có hành vi vi phạm các quy định về khiển phương tiện giao thông đường bộ.

điều


2 Xem luật giao thông đường bộ ( phần phụ lục)

Để xác định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ, trước hết phải xác định phương tiện giao thông đường bộ bao gồm những loại nào.

Trước đây, Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hành vi vi

phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải, nên phạm vi xác định

hành vi vi phạm rộng hơn, kể cả người không điều khiển phương tiện giao thông cũng vi phạm, nay tội phạm này chỉ quy định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nên phạm vi xác định hành vi vi phạm có hẹp hơn.

Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ các quy định an toàn

giao thông đường bộ. Ví dụ: Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có

chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải ( khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ ).

Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự mà phải căn cứ vào các quy định tại Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

Để kịp thời đáp ứng tình hình xét xử các vụ tai nạn giao thông đường bộ đối với hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Hội đồng

thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra Nghị

quyết số

02/2003/NQ-HĐTP

ngày 17-4-2003, nhưng cũng chỉ hướng dẫn trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra.

b. Hậu quả

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu

hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật.

Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị chết;

Thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác coi là làm cho người khác bị thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát hư hỏng nặng.

Hiện nay theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 02/2003/ NQ-HĐTP) thì được coi là gây thiệt hại nghiêm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/06/2023