CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
1. TIỀN TỆ
1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Từ rất sớm trong lịch sử loài người đã xuất hiện nhu cầu phải có một hình thức tiền tệ làm trung gian trao đổi. Khi nền sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, giá trị hàng hóa mới được biểu hiện bằng tiền – tức là có sự ra đời của tiền tệ. Như vậy có thể thấy, quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa dẫn đến sự xuất hiện những vật ngang giá chung là những hàng hóa có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hóa thông thường khác. Do vậy, tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa.
1.2. Khái niệm và bản chất của tiền tệ
1.2.1. Khái niệm tiền tệ
Tiền là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hoá, dịch vụ hoặc để hoàn trả các khoản nợ.
Khái niệm này chỉ đưa ra các tiêu chí để nhận biết một vật có phải là tiền tệ hay không. Tuy nhiên nó chưa giải thích được tại sao vật đó lại được chọn làm tiền tệ. Để giải thích được điều này phải tìm hiểu bản chất của tiền tệ.
1.2.2. Bản chất của tiền tệ
Có thể bạn quan tâm!
- Tài chính tiền tệ - 2
- Sự Tồn Tại Và Phát Triển Của Kinh Tế Hàng Hoá - Tiền Tệ
- Tài Chính Công (Trọng Tâm Là Ngân Sách Nhà Nước)
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ, là phương tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn.
Bản chất của tiền tệ được thể hiện rò hơn qua hai thuộc tính sau của nó:
- Giá trị sử dụng của tiền tệ: là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Như vậy người ta sẽ chỉ cần nắm giữ tiền khi có nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội qui định: đến khi nào xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt vai trò tiền tệ (tức là vai trò vật trung gian môi giới trong trao đổi) thì khi đó giá trị sử dụng của nó với tư cách là tiền tệ còn tồn tại. Đây chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng như biến mất của các dạng tiền tệ trong lịch sử.
- Giá trị của tiền tệ: được thể hiện qua khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng đổi được nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi. Tuy nhiên khái niệm sức mua tiền tệ không được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng hàng hoá nhất định mà xét trên phương diện toàn thể các hàng hoá trên thị trường.
1.2.3. Các hình thái của tiền tệ
Nghiên cứu lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái: hoá tệ, tín tệ và tiền tín dụng...
1.2.3.1. Hoá tệ (Tiền tệ hàng hóa)
Đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ. Đặc điểm chung của loại tiền tệ này là:
- Hàng hóa dùng làm trung gian trong trao đổi phải có giá trị thực sự.
- Giá trị của vật trung gian trao đổi này phải ngang bằng với giá trị của hàng hóa đem ra trao đổi, tức là trao đổi ngang giá một hàng hóa thông thường lấy hàng hóa đặc biệt – tiền tệ.
Hóa tệ xuất hiện lần lượt dưới 2 dạng:
a. Hoá tệ phi kim loại
Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn ngẫu nhiên, không còn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng nhiều hơn đó giữa các hàng hoá đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi, và bảo tồn giá trị. Những hình thái tiền tệ đầu tiên có vẻ lạ lùng, nhưng nói chung là những vật trang sức hay những vật có thể ăn. Thổ dân ở các bờ biển Châu Á, Châu Phi, trước đây đã dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền. Lúa mì và đại mạch được sử dụng ở vùng Lưỡng Hà, gạo được dùng ở quần đảo Philippines. Trước Công nguyên, ở Trung Quốc kê và lụa được sử dụng làm tiền…
Hóa tệ phi kim loại có nhược điểm là:
- Tính chất không đồng nhất.
- Dễ hư hỏng, khó bảo quản và vận chuyển.
- Khó phân chia hay gộp lại.
- Chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa phương.
Vì những nhược điểm đó mà hóa tệ phi kim loại dần biến mất và thay vào đó là hóa tệ kim loại.
b. Hoá tệ bằng kim loại
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển kèm theo sự mở rộng phân công lao động xã hội đồng thời với sự xuất thiện của Nhà nước và giao dịch quốc tế thường xuyên. Kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bật trong vai trò của vật ngang giá bởi những thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến,… Những đồng tiền bằng kim loại: đồng, chì, kẽm, thiếc, bạc, vàng xuất hiện thay thế cho các hoá tệ không kim loại. Tiền bằng chì chỉ xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới dạng một thỏi dài có lỗ ở một đầu
để có thể xâu thành chuỗi. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những năm 685 – 652 trước Công nguyên ở vùng Tiểu Á và Hy Lạp có đóng dấu in hình nổi để đảm bảo giá trị. Các đồng tiền bằng kim loại đã sớm xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải. Tiền kim loại đầu tiên ở Anh làm bằng thiếc, ở Thuỵ Sĩ và Nga bằng đồng. Khi bạch kim mới được phát hiện, trong thời kỳ 1828 – 1844, người Nga cho đó là kim loại không sử dụng được nên đem đúc tiền. Nếu so với các loại tiền tệ trước đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ưu điểm nhất định cũng đưa đến những bất tiện trong quá trình phát triển trao đổi như: cồng kềnh, khó cất giữ, khó chuyên chở… Cuối cùng, trong các kim loại quý ( quí kim) như vàng, bạc, những thứ tiền thật sự chúng có giá trị nội tại trở nên thông dụng trong một thời gian khá lâu cho đến cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX.
Khoảng thế kỷ thứ XVI ở Châu Âu nhiều nước sử dụng vàng làm tiền, có nước vừa sử dụng vàng vừa sử dụng bạc. Các nước Châu Á sử dụng bạc là phổ biến. Việc đúc quý kim thành tiền ngay từ đầu được coi là vương quyền, đánh dấu kỷ nguyên ngự trị của lãnh chúa vua chúa.
Lịch sử phát triển của tiền kim loại quý đã trải qua ba biến cố chủ yếu, quyết định đến việc sử dụng phổ biến tiền bằng kim loại quý.
- Sự gia tăng dân số và phát triển đô thị ở các nước Châu Âu từ thế kỷ XIII đưa đến sự gia tăng nhu cầu trao đổi. Các mỏ vàng ở Châu Âu không đủ cung ứng.
- Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bạch kim loại bị mất giá, trong thời gian dài vàng, bạc song song được sử dụng làm tiền; các nước Châu Âu sử dụng cả vàng lẫn bạc. Chỉ các nước Châu Á mới sử dụng bạc (do không đủ vàng) đến cuối thế kỷ XIX bạc ngày càng mất giádo vậy các nước Châu Âu và cả Hoa Kỳ quyết định và sử dụng vàng, các nước Chấu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa do lệ thuộc sự nhập cảng nguyên liệu máy móc… từ Phương Tây nên cũng bãi bỏ bạc sử dụng vàng. Ở Đông Dương, bạc được sử dụng làm tiền từ 1885 đến 1931. Đến năm 1931 đồng bạc Đông Dương từ bản vị bạc sang bản vị vàng, có thể cho rằng, khoảng từ 1935 chỉ còn một kim loại quý được tất cả các nước chấp nhận làm tiền trên thế giới là vàng.
Các kim loại có nhiều ưu điểm hơn so với các hàng hóa khác khi sử dụng làm tiền tệ như:
- Chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác.
- Dễ chia nhỏ.
- Giá trị tương đối ít biến đổi.
- Có tính bền hơn.
Tuy có những đặc điểm thích hợp cho việc sử dụng làm tiền tệ như vậy nhưng tiền vàng vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hộ khi nền sản xuất và
trao đổi hàng hóa phát triển đến mức cao. Một số lý do sau đây đã khiến cho việc tiền vàng không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:
- Quy mô và trình độ sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa trao đổi ngày càng tăng và đa dạng. Trong khi đó, lượng vàng sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu về phương tiện trao đổi của nền kinh tế.
- Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên do năng suất lao động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành sản xuất hàng hóa khác. Điều này dẫn đến giá trị của vàng trở nên quá lớn, không thể đáp ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trị trao đổi mỗi lần nhỏ như mua bán dịch vụ hoặc hàng hóa tiêu dùng...
- Ngược lại, trong những giao dịch có giá trị lớn thì vàng lại trở nên cồng kềnh.
- Việc sử dụng tiền tệ hàng hóa bị các nhà kinh tế xem là sự lãng phí nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Để dùng một loại tiền tệ làm hàng hóa, xã hội sẽ phải cắt giảm các công dụng khác của hàng hóa đó hoặc dùng các nguồn lực khan hiếm để sản xuất bổ sung. Với việc dùng vàng làm tiền tệ, con người đã phải giảm bớt các nhu cầu dùng vàng làm đồ trang sức hoặc trong các ngành có sử dụng vàng làm nguyên liệu vì xã hội phải dành một phần lớn số lượng vàng hiện có làm tiền tệ.
Với những lý do như vậy, xã hội phải đi tìm một dạng tiền tệ mới phù hợp hơn.
1.2.3.2. Tín tệ
Tín tệ được hiểu là thứ tiền tự nó không có giá trị nhưng do sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng. Tín tệ có thể bao gồm tiền bằng kim loại và tiền giấy.
- Tiền kim loại là tiền được đúc bằng kim loại nhưng hoàn toàn khác với hóa tệ kim loại do giá trị danh nghĩa mà nó đại diện (giá trị trao đổi) khác xa so với giá trị đích thực của lượng kim loại đúc ra nó.
- Tiền giấy là những tờ giấy bạc do Ngân hàng phát hành. Tiền giấy bao gồm 2 loại:
+ Tiền giấy khả hoán: là loại tiền giấy được ấn định theo tiêu chuẩn giá cả bằng vàng và nó có thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo hàm lượng đã được nhà nước công bố. Như vậy, tiền giấy khả hoán là tiền giấy được đảm bảo bằng vàng.
+ Tiền giấy bất khả hoán (tiền dấu hiệu): là tiền giấy được ấn định theo tiêu chuẩn giá cả pháp luật bắt buộc lưu hành và không thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng.
Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền đồng vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền đồng đổi được 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền đồng và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rò khi xem xét lịch sử tiền tệ các
nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gửi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương quyền các nước Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy vàng hay bạc bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành.
+ Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: ban đầu là 100% sau còn 40%.
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vay không tính lãi khi cần thiết.
Tiền giấy bất khả hoán là thứ tiền giấy bắt buộc lưu hành, mọi người không thể đem tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.
Nguồn gốc của tiền bất khả hoán là bởi những nguyên nhân sau:
+ Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nước Anh từ năm 1931 đã cưỡng bức lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước Pháp năm 1936.
+ Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 dẫn đến ở nước Đức mọi người đua nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải dùng vàng trả nợ nước ngoài và do đó số dự trữ vàng gần như không còn. Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh tế, xã hội lớn. Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934). Từ đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng như các quan điểm trước đây.
Ngày nay, tiền giấy chủ yếu là tiền dấu hiệu. Việc xã hội chấp nhận sử dụng tiền giấy mặc dù giá trị thực của nó thấp hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện vì tiền giấy được quy định trong luật là phương tiện trao đổi, vì mọi người tin tưởng vào uy tín của cơ quan phát hành ra chúng là ngân hàng trung ương, và vì việc sử dụng tiền giấy là tiện lợi.
Những ưu điểm của việc sử dụng tiền giấy có thể thấy là:
- Sử dụng tiền giấy giúp cho con người có thể dễ dàng cất trữ và vận chuyển.
- Tiền giấy có đủ các mệnh giá từ lớn đế nhỏ phù hợp với các quy mô giao dịch.
- Về phía Chính phủ, ưu điểm của tiền giấy là việc in tiền giấy tốn chi phí nhỏ hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện và có thể phát hành không phụ thuộc vào số lượng các hàng hóa dùng làm tiền tệ trước đây.
Tuy nhiên, tiền giấy cũng có một số nhược điểm như:
- Dễ rách, không bền.
- Chi phí lưu thông vẫn còn lớn.
- Khi trao đổi hàng hóa diễn ra trên phạm vi rộng (giữa các quốc gia...), đòi hỏi tốc độ thanh toán nhanh và an toàn thì tiền giấy vẫn trở nên cồng kềnh, không an toàn.
- Dễ bị làm giả, dễ rơi vào tình trạng bất ổn (do không có giá trị nội tại và không thể tự điều tiết được số lượng tiền giấy trong lưu thông như tiền vàng).
1.2.3.3. Tiền tín dụng (Tiền ngân hàng, Tiền ghi sổ)
Bên cạnh tiền giấy, do sự phát triển của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, một hình thái tiền tệ mới xuất hiện dựa trên hoạt động của các tổ chức đó là tiền tín dụng.
Tiền tín dụng là tiền nằm trong các tài khoản mở ở ngân hàng và được hình thành trên cơ sở các khoản tiền gửi không kỳ hạn vào ngân hàng.
Tiền tín dụng thực chất là cam kết của ngân hàng cho phép người sở hữu tài khoản tiền gửi được rút ra một lượng tiền giấy bằng đúng số dư có ghi trong tài khoản.
Trong các hoạt động thanh toán bằng tiền tín dụng thì phải thông qua hệ thống ngân hàng làm trung gian, do vậy tiền tín dụng còn có tên gọi khác là tiền ngân hàng.
Tiền tín dụng chỉ là những con số ghi trên tài khoản tại ngân hàng nên có thể nói, tiền tín dụng là đồng tiền phi vật chất (không có hình thái vật chất) và nó cũng là loại tiền mang dấu hiệu giá trị như tiền giấy.
Để sử dụng tiền tín dụng, có nhiều công cụ thanh toán khác nhau mà ngân hàng sẽ cung cấp như: séc, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền... Trong đó phổ biến nhất là séc (là một tờ lệnh do người chủ tài khoản séc phát hành yêu cầu ngân hàng thanh toán từ tài khoản của mình cho người thụ hưởng được chỉ định trong tờ séc).
Việc sử dụng séc trong thanh toán có ưu điểm:
- Tiết kiệm chi phí giao dịch: giảm bớt việc chuyển tiền thực giữa các ngân hàng.
- Tốc độ thanh toán cao và an toàn.
- Tiện cho việc thanh toán vì có thể viết ra với bất kỳ lượng tiền nào và do đó làm cho việc thanh toán những khoản tiền lớn được thực hiện dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng séc cũng có những hạn chế nhất định:
- Thanh toàn bằng séc đòi hỏi một khoảng thời gian cần thiết để kiểm tra tính hợp lệ của séc.
- Thanh toán bằng séc đòi hỏi phải xử lý các chứng từ thanh toán và chi phí cho hoạt động này ngày càng tăng gây ra sự tốn kém đáng kể.
Chính vì những hạn chế đó mà để đáp ứng nhu cầu trao đổi, thanh toán trong nền kinh tế ngày nay cần phải có một hình thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn.
1.2.3.4. Tiền điện tử
Gần đây, những tiến bộ về công nghệ máy tính cũng như sự phát triển của mạng lưới thông tin viễn thông đã cho phép các ngân hàng thay thế phương thức thanh toán truyền thống là sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điện tử. Bằng phương thức mới này, tốc độ chuyển tiền tăng lên rất nhanh, giảm bớt những chi phí về giấy tờ so với lưu thông tiền mặt và séc.
Tiền điện tử là tiền trong các tài khoản ở ngân hàng được lưu trữ trong hệ thống máy tính dưới hình thức điện tử. Như vậy, tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức điện tử.
Tiền điện tử được sử dụng trực tiếp trong các giao dịch dưới các hình thức sau:
- Thẻ thanh toán: là các tấm thẻ do ngân hàng hoặc các công ty tài chính phát hành mà nhờ đó người ta có thể lưu thông những khoản tiền điện tử. Thẻ thanh toán có một số dạng sau:
+ Thẻ rút tiền ATM: thẻ ATM được dùng để rút tiền hoặc chuyển khoản thông qua máy rút tiền tự động ATM.
+ Thẻ tín dụng: là loại thẻ mà tổ chức phát hành đảm bảo rằng họ sẽ thanh toán cho người sử dụng thẻ trong hạn mức tín dụng của thẻ. Số tiền này sẽ được người sử dụng thẻ thanh toán lại cho tổ chức phát hành sau một thời gian nhất định. Nói cách khác, tổ chức phát hành đã cho người sử dụng thẻ vay một khoản tiền nhất định nên được gọi là thẻ tín dụng. Người sử dụng thẻ tín dụng cũng có thể rút tiền trong hạn mức tín dụng của thẻ. Một số loại thẻ thông dụng như Master Card, Visa Card, American Express...
+ Thẻ ghi nợ: hình thức tương tự như thẻ tín dụng nhưng thẻ ghi nợ không phải là công cụ để vay tiền mà là công cụ để tiêu tiền trong tài khoản. Khi thanh toán, người thu tiền sẽ quẹt thẻ qua máy đọc thẻ, sau đó yêu cầu chủ thẻ ký xác nhận vào hóa đơn mua hàng. Sau một số ngày nhất định (thường là 2 ngày), tiền sẽ được chuyển từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản người bán hàng.
+ Thẻ thông minh: thực chất chính là thẻ ghi nợ nhưng trên thẻ gắn thêm bộ mạch vi xử lý cho phép lưu trữ ngay trên thẻ một số lượng tiền điện tử. Số lượng tiền này có thể nạp từ tài khoản ngân hàng vào thẻ thông qua các máy ATM, máy tính cá nhân hoặc các điện thoại có bộ phận nạp tiền. Ngoài tính năng dùng làm phương tiện thanh toán, loại thẻ này còn có thể dùng như thẻ điện thoại, thẻ căn cước lưu trữ các thông tin về người dùng thẻ...
- Tiền mặt điện tử: là một dạng tiền điện tử được sử dụng để mua sắm hàng hóa, dịch vụ trên Internet. Những người sử dụng loại tiền này có thể tải tiền từ tài khoản
ngân hàng của mình về máy tính cá nhân rồi khi duyệt Web mua sắm có thể chuyển tiền từ máy tính mình sang máy tính người bán để thanh toán.
- Séc điện tử: cho phép những người sử dụng Internet có thể thanh toán các hóa đơn qua mạng mà không cần phải gửi những tờ séc bằng giấy như trước. Những người này có thể viết một tờ séc điện tử trên máy tính rồi gửi cho người được thanh toán. Người này sẽ chuyển tờ séc điện tử tới ngân hàng, sau khi kiểm tra tính hợp lệ của từ séc, ngân hàng sẽ thực hiện chuyển tiền từ tài khoản của người viết séc sang tài khoản của người được thanh toán.
Những lợi thế về tiền điện tử nêu trên khiến chúng ta có thể nghĩ rằng nền kinh tế sẽ nhanh chóng tiến tới không dùng tiền giấy hoặc séc. Tuy nhiên, có một số lý do khiến cho điều này khó có thể diễn ra trong tương lai gần:
- Việc thiết lập một hệ thống các máy tính, máy đọc thẻ, mạng truyền thông cần thiết cho phương thức thanh toán điện tử là rất tốn kém.
- Việc sử dụng các tờ séc bằng giấy có lợi thế là cung cấp các chứng từ xác nhận việc thanh toán trong khi tiền điện tử không có được điều này.
- Việc sử dụng séc bằng giấy để thanh toán luôn mất một khoảng thời gian từ lúc ký séc đến lúc người nhận séc rút tiền. Chủ tài khoản séc rất thích điều này vì họ vẫn hưởng lãi trên số tiền đã thanh toán nhưng chưa bị trừ khỏi tài khoản. Điều này không xảy ra với tiền điện tử.
- Việc sử dụng tiền điện tử gặp phải nguy cơ cao về tính an toàn do các hoạt động ăn trộm qua mạng máy tính. Để đối phó với điều này không phải là việc dễ dàng và mất khá nhiều thời gian.
Đây có phải là một hình thái tiền tệ không là vấn đề chưa thống nhất. Một số quan điểm cho rằng đây chỉ là “phương tiện chi trả mới”, sự “chuyển dịch vốn bằng điện tử”.
1.3. Chức năng của tiền tệ
Dù biểu hiện dưới hình thức nào, tiền tệ cũng có ba chức năng cơ bản: phương tiện trao đổi, thước đo giá trị và phương tiện cất giữ giá trị.
1.3.1. Chức năng phương tiện trao đổi
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong việc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, phản ánh lý do tại sao tiền tệ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa. Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế thông qua việc bỏ nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hóa, dịch vụ.
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và mua với một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người